Tôi không biết tên của mình. Một lời khẳng định ngu ngốc nhỉ? Không hề đâu. Chẳng qua, nó là như vậy thôi.
Từ lúc bắt đầu biết giao tiếp với thế gian, tôi đã được những gương mặt kì dị, xa lạ chung quanh gọi là Nomura. Khi người ta không có bất kì cái gì để níu, một lời dối trá phù phiếm một cách tự nhiên hoá thành một chiếc phao cứu sinh. Và tôi cũng thế thôi, tin vào lời dối trá ấy rằng cái chữ “Nomura” chết tiệt kia là tên gọi của mình.
Khi mẹ sinh tôi ra, bà đã ngoài bốn mươi. Và cũng chỉ một năm sau đó bà đã nhẹ nhàng để lại tôi một mình tại nhân gian.
Tôi được nuôi dạy tại một nhà thờ. Tôi không biết vì sao chính mình lại được nhận cái diễm phúc như thế tại một nơi như này. Nhưng, có một điều tôi chắc chắn. Rằng, mẹ tôi là một con người “ngoan đạo”. Có thể chính nhờ sự ngoan đạo ấy mà bà được vị linh mục trẻ cho phép được ở lại nhà thờ để mà thai sản chăng? Và có lẽ cũng chính nhờ sự ngoan đạo kia mà bà đã có thể mặc cả được cái việc tôi sẽ ở lại nhà thờ chăng? Khi đó, tôi thật sự không biết và cho đến tận bây giờ, tôi cũng không biết hoặc chối từ việc được biết.
Tất cả những chuyện về mẹ, tôi chỉ được nghe qua. Còn sự tỏ tường thì tôi chỉ thầm đêm ngày cầu nguyện đấng Jehovah hãy chỉ ra cho tôi biết mà thôi.
Gương mặt của mẹ, tôi không được tận mắt nhìn thấy. Và cũng không được dùng chính đôi tay mình sờ vào. Dường như chính tôi chối từ sự tiếp xúc ấy như một thứ cấm kị xúc chạm. Hoặc cũng có thể chính bà đã cự tuyệt đi sự va chạm của tôi chăng? Tất cả những gì tôi có thể làm là mườn tượng ra gương mặt của bà trong những giấc mơ. Những giấc mơ của các lần quỳ gối cầu nguyện trước tượng Marie cao quý. Những cơn châp chờn mộng mị lúc ngủ quên trên ngưỡng đọc kinh của nhà nguyện cũ nằm khuất sau kho chứa nhà thờ.
Hình như, khi tôi mơ về mẹ, tôi nhìn thấy cả bóng hình của Marie. Càng lớn, những đường nét của gương mặt một người phụ nữ mà tôi cho là mẹ mình cũng tan rã dần mà thay vào đó là hình bóng của đức mẹ rõ ràng thêm. Và từ bao giờ, tôi đã chìm trong những cơn mơ hồ nhiều đến độ chính mình bắt đầu đồng nhất những hình ảnh lộn xộn kia thành một khối thống nhất kì quặc. Hình ảnh chính mình khi mới lọt lòng với bức tượng Marie bồng đấng Jehovah nơi tôi thường tỏ ra ngoan đạo để được ở lại nhà thờ. Và từ dạo ấy, tôi bắt đầu căm ghét cả hai người phụ nữ cũng như ghen tị với đấng Jehovah.
Tôi không biết cha mình là ai. Tôi không hỏi mẹ, kể cả trong những giấc mơ. Và có chăng, kể cả khi tôi có hỏi, bà cũng chỉ im lặng mỗi lần gặp tôi. Cái im lặng của bà tưởng như những âm thanh đang bị giam lại sau lớp mũ trùm đầu bằng vải voan hai màu đen trắng cùng chiếc vòng đeo thập tự giá sáng ánh màu bạch kim.
“Nomura”, tôi chỉ có đúng cái nhân dạng này. Không ngày sinh. Không tháng sinh. Không năm sinh. “Nomura”, tôi chỉ biết đây là âm thanh duy nhất mà mẹ tôi đã lặp đi lặp lại khi bà gặp linh mục. Lúc đấy, bà đã hoá thân trong hình hài của một người đàn bà bị mất đi toàn bộ kết nối kể cả ngoại giới lẫn nội giới với nhân gian. “Nomura” tôi chỉ có mỗi cái này làm một câu thần chú. Một câu thần chú để tôi gặm cho qua những đêm dài ngủ trên đống cỏ khô mà nhà thờ dùng làm thức ăn gia súc.
Người đàn bà đầu tiên tôi ôm, tiếc thay, đó không phải Marie và cũng chẳng phải là mẹ.
Năm tôi lên sáu, vì trốn công việc ở nhà kho, tôi bị linh mục phạt rất nặng. Đêm đó, linh mục bắt tôi quỳ ở giáo đường và đọc kinh suốt buổi tối. Tôi nhớ mình đã ngất đi. Trong giấc mơ, tôi không gặp Marie, cũng không gặp mẹ. Một giấc mơ kì quặc rằng chính tôi đang được ôm ấp bởi một hình hài mềm mại. Mùi hương hoa tế lễ, mùi nến thơm dâng thánh cứ thế ào ạt trào vào khoang mũi. Chúng như thể đang cố gắng tìm kiếm mọi khoảng trống bên trong tôi để lấp đầy. Và khi mọi khoảng trống ấy đã không còn trống rỗng nữa, tôi vùi đầu vào thứ sự vật mềm mại ấy mà ngủ một giấc ngon lành đến sáng. Khi đó, miệng tôi vẫn không ngừng lầm rầm câu nói. “Marie thương xót Nomura.” Điều mà đáng lẽ tôi phải đọc là Marie thương xót Jehovah.
Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, tôi vẫn nằm trên nền đất lạnh ngắt của giáo đường. Bất chợt, tôi nhận được tin một nữ tu đã rời bỏ nhà thờ. Cô ra đi lặng lẽ như thể chính cô đã phản bội lại Thiên Chúa hoặc nhân danh Chúa, nhà thờ đã ruồng bỏ cô. Từ tầng cao của một cối xay lúa, tôi hình dung lờ mờ bóng dáng một người đang bước về phía ánh sáng. Thứ ánh sáng ấy quá chói lọi là mắt tôi như bị loá đi, tối sầm. Hình như bình mình như rọi thẳng vào con người nhỏ bé kia. Chiếc mũ trùm vải voan đã hoàn toán biến mất thay vào đó là mái tóc dài đang tung bay trong cơn gió đầu ngày. Con người ấy, hình như khuất dần, khuất dần rồi tan biến giữa những đợt nắng ban mai đang tràn trề như cơn sóng triều dâng.
Tối hôm ấy, Nomura cũng học theo cô, ruồng bỏ nhà thờ.
Tôi đi theo dấu chân cô, đi tìm một bóng hình chỉ mới ban sáng còn mập mờ ở đường chân trời. Tôi ngờ ngợ cô ấy chính là Marie đã ôm tôi trong giấc mộng kinh hoàng của trận bủa vây bởi thánh Kinh sám hối. Mùi hương hoa lễ tan dần theo đoạn đường mòn rồi bắt đầu bốc lên một thứ mùi rệu rã. Hoa bên đường chớm nở lụi dần sau mỗi bước chân đi. Mùi nến thơm dâng thánh cũng tản ra biến dần thành một thứ mùi trần tục thầm lặng.
Tôi không biết người nữ tu ấy là ai. Nhưng Nomura thì biết. Chỉ cần nhìn thấy cô, Nomura chắc chắn sẽ biết. Tôi bước đi, vô định trong đêm. Chỉ có ánh trăng đang dẫn lối một con đường dài, hẹp dần rồi ngoằn nghèo không thấy lối. Một con đường như xuyên vào màn đêm, xuyên vào những dáng hình mà tôi đang mơ hồ tự vấn.
Tôi nghỉ chân tại một ngôi nhà bên đường. Người chủ nhà nhận ra tôi ngay vì ông ta là người tôi vẫn thường lén đem cỏ khô đổi lấy ít tiền tiêu vặt. Ông mời tôi lên gác ngủ, hình như trong ánh mắt hiện lên những tia tựa hồ kẻ đối nghịch chúa trời. Đêm đó, từ phòng bên đúng là truyền lại những âm thanh không thuộc về thế giới của thiên chúa.
Sáng hôm sau tôi đi rửa mặt ở nhà vệ sinh. Nomura gặp lại người nữ tu qua tấm gương lờ mờ hơi nước. Dáng cô rệu rã, cái phong thái dâng lễ thường ngày được thay bằng một dáng hình rời rạc không còn kết nối nhân gian. Tôi nhận ra được khẩu hình cô tạo ra trong gương. “Chạy đi.” Và rồi chính tôi như cảm giác thấy có gì không lành, tôi lẻn ra cửa sau căn nhà rồi trốn vào một bao đựng phân của lũ gia súc.
Trưa hôm ấy, linh mục đến nhà người đàn ông. Tôi thấy ông ta giao cho người này mấy tờ giấy bạc. Nhưng rồi sau khi đám người của nhà thờ bước vào nhà rồi lại bước ra, linh mục bắt đầu thoá mạ và rời đi. Hình như linh mục tức giận vì người này không thờ Chúa. Hoặc cũng có thể vì một lý do gì đó mà tôi không biết chăng? Cuối cùng, tôi thiếp đi vì mệt mỏi và sợ hãi.
Cùng buổi tối hôm đó, khi tôi ngủ quên trong đống phân, tôi nghe những âm thanh kì quái từ vườn sau căn nhà. Mở mắt ra trông, tôi nhìn thấy cảnh đấng Jehovah thọ hình trên cây thập tự.
Khi những huyên náo im dần, tôi mới đủ can đảm bước ra. Người tôi phủ đầy phân và bốc mùi kinh tởm. Tôi đến gần chỗ thọ hình. Rồi trong giây phút, tay tôi làm dấu thánh, cái mà tôi đã phản bội chỉ mới ngày hôm qua. Tôi đặt môi mình hôn lên dáng hình gầy gò ấy. Môi tôi tìm đến môi của người đó rồi lặng lẽ rời đi.
“Nomura thương xót Marie”. Trong đêm tối, lầm bầm như một câu thần chú. Ánh trăng bàng bạc chiếu sáng khắp nơi nhưng những nơi tôi bước chân qua, dường như bị ánh trăng né đi chỉ còn lại màn đêm lặng lẽ.
Tôi gặp Michel khi chính mình đang lang thang trên dòng chảy nhân gian. Không điểm tựa, không chốn neo đậu, chỉ cứ thế mà bước đi. Trong bóng tối, cứ thế mà bước đi. Tôi không biết Michel là ai, Nomura cũng như tôi không biết Michel là ai. Nhưng, Michel biết Nomura. Michel hoàn toàn không để ý đến tôi, chẳng qua hỏi thăm vài câu khi gặp nhau giữa đường. Nhưng, khi Michel nghe đến cái danh xưng Nomura, bất chợt, trên gương mặt Michel như có những vì sao lấp lánh đang lướt qua dãi ngân hà màu hồng phấn. Những vì sao ấy chợt tan ra, hoà vào dãi ngân hà kia rồi tất cả như quện lại vào nhau thành một bức tranh không còn rõ ràng đường nét nữa.
Trước khi tôi mười sáu tuổi, Michel vừa là cha tôi, vừa là mẹ tôi. Michel nghiêm khắc như linh mục của nhà thờ và cũng đôi lúc ôm tôi như một người nữ tu mỗi khi tôi phạm phải tội lỗi. Và đó cũng chính là người đàn bà thứ hai mà tôi đã ôm trong cuộc đời mình.
Tôi lớn lên trong vòng tay của Michel. Tôi chưa bao giờ dùng tiếng “cha” hay “mẹ” để gọi Michel. Tôi không hiểu vì sao mình lại có cảm giác rằng hai khái niệm này hoàn toàn không phù hợp với bất kì một trường hợp nào khi tôi đối diện với Michel cả. Michel, chỉ là Michel thôi. Và mãi đến tận sau này, khi tôi qua tuổi mười sáu, tôi cũng chưa bao giờ có được cho mình một nhân dạng nào phù hợp để gán Michel vào đấy cả.
Michel làm chủ một quán rượu ở trung tâm thành phố. Ningen Sikkaku thì phải. Tôi không nhớ rõ tên của quán rượu ấy lắm đâu. Lần đầu tôi đến đấy là khi tôi tốt nghiệp cao trung và được tuyển thẳng vào trường sư phạm. Tôi đã gọi rượu và bắt đầu thưởng thức nỗi băng hoại như cơn thiêu đốt cuống họng mình khi thứ chất lỏng ấy trôi qua. Trong cơn chập chờn của những hình ảnh đang đung đưa trước mắt, tôi và Michel, hai ánh mắt gặp nhau. Michel vẫn là Michel không có gì thay đổi. Nhưng chính tôi tự hỏi tại sao khi bắt gặp ánh mắt đó, mình lại không sao có thể nhìn thẳng vào đấy như hồi còn thơ dại nữa.
Tối đấy, tôi say. Trong cơn mơ hồ, tôi được đưa về nhà. Vẫn mùi nước hoa Gucci quen thuộc mà tôi đã ngửi suốt từng ấy năm trời khi vùi lòng vào Michel mà ngủ. Nhưng hôm nay, mùi nước hoa ẫy bỗng trở nên lạ kì. Một thứ mùi thối rữa chăng hay chẳng qua là thứ mùi ham muốn của xác thân bắt đầu chu kì băng hoại sau khi đạt đến ngưỡng tối đa của sự sinh trưởng?
“Michel hãy làm vợ của Nomura nhé?” Tôi đưa mắt lên nhìn người đàn bà . Rốt cuộc tôi cũng tìm ra được một nhân dạng cho Michel, mặc dù tôi không biết được điều đó là đúng hay sai. Khi tôi nói điều này, gương mặt của người trước mặt đang tan rã và hoà vào ánh trăng chiếu vặc trên nền khung cửa sổ. Tối hôm đó, tôi lại nghe lại nhưng âm thanh phản chúa mà đã từ lâu tôi không còn được nghe.
Người ta nói rằng khi bắt đầu vai trò của người vợ, người đàn bà sẽ dần dần có những suy nghĩ khác thường về thể xác. Khi tôi nói câu này vào buổi sáng hôm sau, vợ tôi bỗng ngồi thụp xuống nền nhà. Cô ấy đã bật khóc. “Ta không xứng với con. Ta chẳng qua là một tội lỗi mà thượng đế đã tạo ra.”
Tôi ôm vợ mình vào trong lòng, lần đầu tiên tôi biết thế nào là cảm giác ôm một người khác trong tư thế của một người chủ động. Tôi thở một cái hắt ra rồi hôn lên gò má đã lấm lem những phấn và nước mắt. “Chúng ta hãy cùng tự sát đi.”
Hình như câu nói này của tôi chính là thứ chìa khoá để mở cửa thành trì cuối cùng nơi tâm hồn của vợ. Và trong ánh mắt của vợ tôi, tôi cảm nhận một nỗi buồn vô hạn và một nỗi đau không sao bật được thành lời. Nỗi buồn ấy, và nỗi đau kia đã hoá thân thành một cái gật đầu nhè nhẹ.
Đó là lần đầu tiên, tôi nghĩ đến cái chết trong đời.
Chúng tôi đã chuẩn bị cho một nghi thức hồi hương hoành tráng. Chúng tôi cùng nhau làm tình một cách trần trụi nhất, những cái ôm, những cái hôn cứ thế mà tan lẫn vào nhau. Những tế bào trong tôi và những tế bào của vợ như được một liên kết thần thánh, siêu việt kết nối lại với nhau. Cứ như thể chúng biết rằng lần gặp nhau này sẽ là lần sau chót.
Cuối cùng chỉ có một mình vợ tôi đi con đường hồi hương tưởng chừng là đích đến cho cả hai. Thiên Chúa đã chối từ tôi như cách tôi từng chối từ ngài. Đêm đó, tôi ôm vợ mình lần cuối trước khi đào một cái hố sau nhà và vứt bừa tử thi ở đấy. Và lần đấy cũng là lần cuối cùng tôi ôm một người đàn bà bằng tất cả những thứ thuộc về nghi thức trang trọng nhất.
Sau đêm ấy, tôi bắt đầu hành trình phản chúa liên tục. Mỗi lần như vậy, tôi đều đem một người đàn bà khác đặt vào lòng mình. Nhưng dù cho va chạm với bao nhiêu người đàn bà đi chăng nữa, hình ảnh của vợ tôi cứ chập chờn trong khoảnh khắc. Vừa như ánh mai đang rạng rỡ đón chào vừa như tà dương đang lặng dần tan rã. Những người đàn bà tựa vào lồng ngực tôi, cố làm sao cho vừa ý tôi. Họ chẳng qua là những con quỷ thèm muốn xác thịt. Còn tôi, chẳng qua là thứ xác thịt thối rữa mà họ thèm muốn. Tất cả như hoá thân vào một vở kịch mà khi thoát vai ra cả tôi và họ đều không bao giờ tìm được điểm kết nối.
Sau mỗi lần phản chúa, tôi đuổi những người đàn bà kia đi. Trong căn phòng chỉ còn lại một mình, tôi chuẩn bị một nghi thức trang trọng. Tôi mặc áo sơ-mi, mang quần tây, thắt lại cravat, đi giầy. Tôi lấy chai nước hoa Gucci của vợ mà xịt lên khắp người như cách các linh mục rãy nước thánh rửa tội nhân. Và khi những chuẩn bị cho nghi thứ hoàn tất, tôi tự kết liễu đời mình. Nhưng khốn thay, dù có lập đi lập lại đoạn kịch bản đó thêm bao nhiêu lần nữa, tôi cũng không bao giờ còn tư cách để hoàn thành nó một cách trọn vẹn.
Phải.
Không còn tư cách.



Bình luận
Chưa có bình luận