Tôi bắt đầu công việc ở quán rượu sau khi học cao trung. Và cũng như bao cậu thanh niên trượt đại học hoặc không thi đại học, một năm sau tôi được gọi đi nghĩa vụ quân sự. Đó chẳng phải là bước ngoặc cuộc đời hay những thứ đại loại như thế mà nhân gian vẫn thường bàn tán. Đó chẳng qua là một sự vụ, một cái gì đó đến như một cách hiển nhiên.
Đi nghĩa vụ về, tôi cũng không học hành tiếp. Đó cũng không có nghĩa tôi lựa chọn cho mình một con đường tươi sáng như cách mà những thanh niên rời quân ngũ, mang bao hoài bão chôn lại sau lưng để bước về phía mặt trời. Trước mắt tôi, tôi chỉ thấy một màu tà dương còn phía sau lưng, bóng tối đã đang từng bước bao trùm nhân gian như cách nó nuốt trọn ánh sáng vào bên trong nó. Tôi trở về quán rượu năm xưa.
“Mừng em trở về.” Chủ quán nhìn tôi, gương mặt cô ấy rạng ngời những tia ấm áp.
Tôi nhìn khắp nơi, không có một bóng khách nào. Một sự trống trải nhưng lại ấm áp kì lạ. Đèn xanh đỏ vốn đặc trưng của một hộp đêm chuyên thác loạn được thay bằng những bóng đèn màu vàng nhàn nhạt như ánh tà dương.
“Sao hôm nay không có khách?” Tôi đặt ba lô xuống chiếc ghế.
“Hôm nay chị không tiếp khách. Đón mình em đấy.” Chị chủ quán cười. Nụ cười của chị vừa mơ hồ, vừa hiện hữu. Như thể tan ra nhưng cũng tưởng chừng đang đọng lại trên gương mặt đã qua biết bao lần dao kéo.
Chủ quán rượu là một người chuyển giới. Chị ấy không phải dân đồng tính. Chẳng qua sau cái chết của vợ, chị không thể yêu bất kì người đàn bà nào khác nên quyết định phẫu thuật thẩm mỹ thành vợ mình. Tôi không biết sẽ như thế nào nếu mỗi lần chị nhìn thấy mình trong gương. Một nỗi khổ đau dằn vặt đang cấu rỉa bên trong hay một thứ nhục cảm được ôm ấp dáng hình vốn băng hoại từ lâu trong lòng đất mẹ?
Và có lẽ, tận sâu trong đáy tim tôi, tôi cũng có một bóng hình vốn đã băng hoại từ lâu mà chính mình thực sự muốn ôm trọn nó trong lòng mình. Nhưng thật khác xa thứ dáng hình băng hoại trong lòng đất. Dáng hình mà tôi âm thầm ôm lấy lại đang còn hiện hữu chốn nhân gian. Một dáng hình thối rữa ngay trong chính sự hiện diện của nó. Như một xác thân mục ruỗng không còn nhân tính, chỉ còn là một sinh vật đang trượt qua nhân gian để chờ đợi một điểm dừng không rõ.
Tôi bắt đầu thật sự làm việc ở quán này. Và mọi thứ trôi qua một cách êm ả. Một cuộc đời bình lặng cho một đứa trẻ vừa chào đời đã phải sống cùng với ông bà nội. Nhiều khi, chị chủ quán hỏi tôi sao không về thăm già đình, tôi chỉ cười lặng lẽ một nụ cười buồn tênh. “Làm gì có nhà để mà về nữa chứ?” Tôi hỏi chị, một câu hỏi mà vốn dĩ tôi đã biết câu trả lời nhưng không bao giờ muốn nói ra. Và có lẽ chị ấy cũng hiểu rằng trong chính câu hỏi kia nó đã bao hàm một câu trả lời, dù không mấy rõ ràng, nên từ đó về sau, chị chẳng bao giờ hỏi tôi một điều gì tương tự cả.
Khi tôi được sinh ra, mẹ tôi không có mặt ở bên cạnh. Còn cha thì suốt ngày uống rượu đâm ra ông như người loạn thần kinh. Dường như ông không uống để say. Tôi không cảm nhận được cái say trong ánh mắt của ông. Ông chỉ đơn thuần là uống, và chỉ có thế thôi.
Thực sự, khi còn nhỏ, tôi không biết điều này đâu. Chỉ bắt đầu từ khi làm ở quán rượu, tôi mới thực sự có dịp tận mắt chứng kiến hàng tá những kiểu say của con người tại nhân gian. Có người uống vì xua tan cái mỏi mệt, có người dùng chỉ vì muốn tìm lấy sự lãng quên, có người sử dụng để đắm mình trong cảm giác truỵ lạc, và có người chỉ đơn thuần là uống.
Và khi đó, tôi chợt nhận ra, cha tôi chỉ đơn thuần là uống. Tại sao ư? Cũng không có gì khó đâu. Con người thường che dấu nhân diện thật sự của mình trong lớp áo ngoài chỉn chu. Có những người nguỵ trang khéo đến độ nếu không thật sự để ý những tiểu tiết như khi họ đập một con muỗi hay nghiến một cái nghiến răng sẽ không bao giờ nhận ra sự bất tường trên gương mặt họ. Nhưng trái ngược lại với khỉnh táo, lúc say, họ phô bày ra tất cả những thuộc tính vốn thuộc về bản tính. Sự xa hoa, truỵ lạc, nỗi hổ thẹn, cứ thế ngược chiều rượu vào mà tuôn ra. Và những lần như vậy, tôi có cảm giác tim mình như nghẹt thở. Một nỗi sợ hãi con người bất chợt dâng lên và tôi trông họ cứ như là trông thấy một diện mạo xấu xí kì quặc được trang hoàng sau lớp da mặt căng bóng phủ đầy hoá trang.
Cha tôi không thay đổi sắc diện, khi không uống và cả khi uống. Hình như gương mặt ông là một lớp mặt nạ bị hỏng mất chức năng biểu thị cảm xúc. Nhưng dù cố gắng cách mấy, lớp mặt nạ đã đơ ra kia vẫn không bao giờ che đậy được nỗi phản kháng đang dằn xé bên trong. Khi cha uống, ông thường nhìn vào mắt tôi. Một đôi mắt trũng sâu có thể nhìn thấy bên kia cầu mắt. Không có gì trong đó, chỉ là một đáy vực hun hút. Và những lần ông nhìn tôi như vậy, cả cơ thể tôi bắt đầu gồng lên. Như thể nó biết chắc rằng thân xác này chỉ một chốc nữa thôi sẽ được nếm một trận dằn vặt bởi người đàn ông có tâm hồn trống rỗng trước mắt.
Khi cha giáo huấn, ông cũng không tỏ thái độ gì. Chí ít, nếu như ông biểu lộ một chút căm phẫn hay một ý nghĩ đen tối nào đó thì tôi còn có thể có cớ để ghét ông. Nhưng điều đó lại hoàn toàn không nên tôi chỉ đành cam chịu đưa tấm lưng trần của mình ra hứng trọn những cơn thịnh nộ không bao hàm thịnh nộ.
Và khi tôi bắt đầu lên cao trung, cha không còn giáo huấn tôi nữa. Trong ánh mắt ông nhìn tôi, dường như có một sự mơ hồ nào đấy. Có một lần, ông bước vào phòng khi tôi đang thay quần áo. Lần đó, ông nhìn thấy toàn bộ thân thể tôi. Ông đứng sững lại một giây rồi rất nhanh ông quay mặt đi. Tôi có thể nhận ra một bóng đen xuất hiện trên gương mặt vốn không cảm xúc của ông nhưng nó chỉ thoáng qua chứ không đọng lại chút gì. Gương mặt ông sau đó vẫn cứ như cái mặt nạ đã hỏng mất chức năng cảm xúc, nhìn tôi rồi lặng lẽ rời đi.
Hôm đấy, cha tôi đi làm ở nhà máy cán thép. Và ông đi mãi, không quay về nhà.
Ba hôm sau, người ta gửi giấy đến nhà. Cha tôi đã nhân lúc không ai để ý, nằm lên máy cán thép và ra đi. Sự việc ấy không ai biết chỉ cho đến khi người ta nhận ra trên máy cán thép có vệt gì lạ lạ thì mới kiểm ra lại máy quay an ninh. Sự việc sau đó cũng im lặng, không có một khoản bồi thường nào cũng không có bất kì kiện tụng. Nhà máy cán thép vẫn là nhà máy cán thép, gia đình tôi vẫn là gia đình tôi. Với mọi người, ngày vẫn đến và đêm vẫn xuống, còn với tôi, chỉ đơn thuần là không còn nhìn thấy gương mặt mà tôi chẳng có lý do gì để ghét bỏ.
Tôi đã sống một mình, trong căn nhà khắp nơi đã quen mùi rượu. Và căn nhà ấy cứ như thế mà rữa ra giữa lòng đô thị xa hoa. Cho đến một ngày, mùi rượu ấy tan đi và trong căn nhà tưởng chừng sắp phân huỷ như một thứ thịt thối này, mùi nước hoa bất chợt thoảng lên khe khẽ. Nhưng cũng chỉ được một lúc thôi, mùi nước hoa ấy cũng quyện với thứ mùi rượu kia tạo thành một phức hợp còn kinh tởm hơn nữa.
“Em sao đấy?” Chị chủ quán thúc tay vào người tôi. Khi đấy, tôi đứng lau cái đĩa mới ăn bánh kem xong. Chị hỏi vì thấy tôi cứ xoay cái đĩa ấy quanh chiếc khăn hệt như cái đĩa là một vòng khép kín không thấy điểm dừng.
Tôi đưa mắt nhìn chị. Gương mặt chị sáng lên trong ánh đèn ấm áp của quán. Thật khó có thể nào nhận ra người trước mặt từng là một người đàn ông. Cằm nhọn, mắt hai mí nhỏ vừa phải, sống mũi thanh tú. Nếu như đây là hệ quả của những đường cắt nối nhân tạo thì phải chăng cái hệ quả ấy quả thực rất thành công.
“Em và chị, chúng ta hãy kết hôn đi.” Lần đầu tiên trong đời, tôi nghĩ đến hôn nhân. Phải, một gia đình. Được xây nên từ những xác thân đang lặng lẽ bước qua những ruỗng mục. Có lẽ, chính một khái niệm mới ấy sẽ thổi vào cả thân xác tôi, lẫn thân xác chị một thứ gì đó mới chăng? Hay chẳng qua đây chỉ là tiếng thì thầm khe khẽ của một kẻ đang đi tìm kiếm thứ hắn không thể có trong đời?
Đó là lần cuối cùng tôi gọi chị là “chị”. Danh xưng ấy giờ chẳng còn chút ý nghĩa nào ngoài con chữ để vô thức của tôi gọi trong những giây phút chúng tôi chạm vào nhau.



Bình luận
Chưa có bình luận