“Xin em.”
Chẳng biết điều chi xui khiến, nhưng cách chàng phát âm từ “em” lại nghe tự nhiên quá chừng quá đỗi, trôi chảy tựa như chàng đã làm điều đó với nàng cả trăm lần, cả ngàn lần, cả triệu lần, cả tỉ lần trước đây. Trong khi thực tế bấy lâu nay giữa đôi bên chỉ có sự tương tác trong khuôn mẫu, loanh quanh với những đại từ nhân xưng lịch sự nhưng khô khan là“cô, tôi, cậu” mà thôi.
Chất giọng chàng vốn trầm ấm khẽ khàng, nhưng lúc này như được ướp thêm một lớp khói đặc, khiến nó trở nên nồng nàn và khàn khàn đến nẫu ruột nhầu gan.
Tựa như nỉ non.
“Xin em.”
Hệt như van nài.
“Đừng khóc.”
Khóc? Ai khóc?
Nghe chàng nói thế, nàng mới run rẩy đưa tay sờ lên mặt mình, gò má nàng đã ướt đẫm nước mắt tự bao giờ.
Hai tay nàng chụm lại rồi chống lên ngực chàng, khẽ đẩy ra. Nhưng cơ thể chàng hệt làm bằng đá tảng, dù nàng cố dồn sức thế nào chàng vẫn chẳng di chuyển dù chỉ mảy may.
“Tôi không có ý ép em, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ. Nếu em thực sự không muốn thân thiết với tôi, dù chỉ là với tư cách bạn bè bình thường, thì tôi sẽ tránh xa…”
Chàng hít một hơi thật sâu trong nỗ lực cố nuốt trôi cơn nghẹn ứ cảm xúc.
“Chỉ xin em đừng khóc, đừng sầu, đừng dằn vặt tâm can tôi như vậy.”
Chỉ xin em đừng khóc, đừng sầu. Ôi chao, thật hệt như khi chàng nói chơn nàng đau thì lòng chàng xót.
Tình yêu.
Tình yêu là thứ thật lạ lùng, nó nghiền nát tim người ta rồi trộn cùng trăm thứ gia vị khác, nhào nặn và gia nhiệt, cuối cùng bày ra một mâm cơm thật ngon lành. Khói thơm bay ngun ngút, muôn sắc đủ vị, rù quến những trái tim đói khát ái tình, lấp đầy rồi nuôi dưỡng những mối liên hệ.
Nàng lại khẽ nâng tay gạt ngang lên gò má mình, nó vẫn ướt đẫm không dừng nghỉ giây phút nào từ lúc chàng nói rằng nàng đừng khóc.
Ướt đẫm tựa cơn mưa dầm dề.
“Tí tách! Tí tách!”
Âm thanh của nước đọng sau cơn giông nện đều đều lên vạt lá mai um tùm được trồng quanh mảnh sân rộng thênh thang.
Trên cao, con tằm ánh sáng nhả sợi, dàn kín lên chiếc nong bầu trời triệu dải tơ vàng nhuyễn mịn, với những sắc độ đậm nhạt chồng chéo, cuộn trào ùn ùn lớp lớp. Cuộc xe duyên giữa tơ nắng chói gắt cùng bảng màu cầu vồng sau giấc chiêm bao mưa phùn diễn ra chóng vánh. Kết tinh thành những đứa con pha trộn đủ loại sắc độ của tím mộng bông súng, nâu thô gáo dừa, xanh mởn đòng đòng, vàng hực trái bình bát chín và chút hồng phớt bông ô môi. Những miếng vải sặc sỡ với hình khối bồng bềnh, ghép nối hài hòa trên nền trời xanh lơ và mây trắng mìn mịn, mà nếu bắt buộc phải đặt tên cho cảnh tượng ấy, thì có lẽ chính là bức tranh gói vải (1) tỉ mỉ tuyệt đẹp.
Thềm ba của sân trước vốn đóng gạch tàu ruột gấc cam đậm, nhưng bởi mưa nắng và bởi cả hằng hà những bước chân tới lui, đã phai nó sang sắc vàng nhờ nhợ gạch cua. Phần kẽ hở giữa những viên gạch ấy mọc đầy rêu úa, dù được quét dọn chà lau thường xuyên vẫn còn lại chút màu nâu nâu xanh xanh. Tất cả khung cảnh ấy được nắng ấm vàng hực sau cơn giông phủ lên, vậy mà có hương vị cổ điển thu hút riêng.
Bên dưới mái ngói vẫn nhiễu nước dư lại của đợt mưa rào vừa qua, cạnh cây cột chống gỗ giáng hương được ghim chặt xuống nền bằng đế đá tổ ong, có một nàng thiếu nữ đang ngồi tựa lưng nghiêng đầu, nhìn ngắm bức tranh gói vải tuyệt đẹp của tạo hóa trên cao kia.
Nàng ta bận áo bà ba lụa trơn màu mỡ gà không hoa văn, phối cùng quần vải thô màu ngà voi, tuy giản dị đôi chút nhưng lại vừa khéo tôn vinh vẻ ý nhị, bật lên nước da rám nắng khỏe mạnh sẵn có. Tóc nàng ta đen óng, chia đều ngôi rồi vuốt một lớp dầu dừa mướt rượt, bới gọn ra sau ót một búi gọn gàng lại dắt hờ sát mép tóc mai chiếc kẹp. Cả người nàng chẳng có nữ trang chi quý giá ngoài cặp bông nụ vàng mười trơn nhẵn, hơi lùm lùm bự cỡ hột chanh, không đủ lấp lánh nhưng vẫn là một điểm nhấn câu cặp nhãn người ta ngó vào vành tai nhỏ xinh cùng dái tai tròn trịa của nàng.
Cô nàng xinh xinh này khuê danh Uất Kim, cháu gái một nhà cự phú tại Sài Gòn, năm nay vừa tròn hai mươi bốn cái xuân thì.
Thuở nay, mấy cậu tân học (2) chuộng khoác đồ vét phết hồ cứng cổ , áo sơ-mi đóng sơ-vin buộc thắt lưng da, chân đi giày da chà xi láng o. Mấy cô thiếu nữ lại ưa bận đầm kiểu tây hoặc sắm áo dài lơ-muya (3) hoa hòe hoa sói, chân đi cao gót đính cườm, khúc cổ tròn trịa xuân sắc đeo đầy trang sức, phần ức đầy đặn lùm lùm không che đậy thì cứ phơi phới cho thiên hạ ngắm nghía bình phẩm, tay nhỏ cầm thêm cái bóp-tơ-phơi (4) rất chi điệu đà. Ấy là cái lối tân thời của lớp trẻ hiện tại, chớ mấy ai mà bận bà ba lụa trơn hay khoác áo dài cổ đứng đơn sắc kín mít như Uất Kim nữa đâu.
Uất Kim cũng muốn thử diện mốt tân thời, nhưng không phải tân thời như trên mà là mặc mấy bộ vét kiểu nam nhưng may cỡ nữ, hay quần áo dành cho hoạt động thể thao săn bắn kia. Có điều một phần túi tiền eo hẹp, may những thứ đồ tây ấy tốn quá nhiều so với quần áo bản xứ. Nhiều phần nữa bổn gia cũng o ép, hay nói cho đúng hơn là má nàng không ưng, bởi má nàng bảo ăn bận thế chẳng ra cái thể thống gì.
Ấy nhưng sự ưng hay không ưng, trong cái phong hóa (5) của gia đình này cũng lạ đời. Nói lạ đời là bởi những cái “không” dường như là giáo điều độc quyền dành cho mỗi mình Uất Kim, buộc cô phải nhất mực tuân theo mà thôi. Cô cúi xuống nhìn mấy viên gạch dưới sân, nâng đầu gối để kê cùi chỏ rồi chống cao lên ôm trọn cái cằm nhòn nhọn vào giữa hai lòng bàn tay. Uất Kim nghiêng tai lắng nghe tiếng tành tạch xế hộp đang rẽ vào đầu cổng nhà vườn.
Bổn gia này thuộc kiến họ Võ, vốn gốc đại điền chủ xứ miệt vườn, ruộng đất cò bay thẳng cánh, bạc mặt đến cả muôn, hột xoàng đáng bạc ngàn, vàng miếng với đồ nữ trang vàng thì hộp hộp.
Kiến họ Võ về bên nhánh chính có cậu con trai độc đinh tên Võ Văn Nhơn, đọc hiểu cả chữ Nho lẫn Quốc ngữ. Mặc cho cái lòng ông thân muốn cậu Nhơn theo đèn sách nối dài sự học hành, sẵn sàng xuất bạc cho cậu biết thêm chữ Tây đặng làm ông này ông kia đọ với thiên hạ chơi, thế nhưng duy kiến (6) cậu Nhơn lại ưa kiếm tiền cho ấm vào tấm thân hơn. Cậu nghĩ rằng học cao cũng tốt, nhưng với cậu học như thế đã đủ vốn, thứ cậu muốn hiện thời là khai khẩn mảnh đất kinh doanh của riêng mình kia.
Sau khi ông thân xanh cỏ, bởi bà thân cậu cũng khuất núi từ lâu mà cậu Nhơn cũng đủ tuổi thành đinh, nên thân tộc cũng không có cớ giữ của ém tài. Hơn thế, đất đai của nả đều có giấy tờ đóng mộc tỏ rõ cậu được quyền hưởng trọn hết thảy.
Cậu Nhơn ôm một mớ lên Sài Gòn quyết chí làm nên sự nghiệp, cậu mở xưởng mộc lại còn lập hãng buôn rồi thầu ghe lúa gạo, lấy tên Hãng Buôn Hưng Võ. Nhờ cái tài bán buôn mát tay lại thêm tính sẵn lanh lợi khôn ngoan, cậu Nhơn từ một chủ điền dưới miệt vườn dần dà trở thành một tay buôn có tiếng tại đất Sài Gòn hoa lệ.
Hai nhăm cậu Nhơn thấy sự nghiệp đã hòm hòm nên cho rằng lấy vợ là vừa đẹp. Nên duyên đầy năm thì mợ đẻ cho cậu được một cô tiểu thơ. Đôi đàng rất mực nồng nàn quấn quýt, tuy thế khi cậu ba chục mợ bỗng khuất bóng khi đi sanh đứa thứ hai, một hòm hai xác, bỏ lại hai cha con cậu tự lo thân nhau. Vốn sẵn tính trọng sự nghiệp không ưa gió trăng, vợ cậu chết thì cậu cứ ở vậy nuôi con gái chứ không thèm đi thêm bước nữa chi cho sanh lắm chuyện. Đôi khi cậu đờn hát ong bướm với vài con ca nhi, hay đưa men hoa nguyệt cùng mấy ả bán phấn buôn hương cho khuây khỏa rồi thôi.
Cậu Nhơn dần dần tóc phai da mồi thành ông Nhơn, ngày đi tháng lại cũng vui vẻ thảnh thơi, cơ nghiệp càng đồ sộ lớn mạnh, ngặt cái nỗi hiếm con hiếm cháu. Về già tự dưng ông Nhơn lại sanh tâm lo sợ cảnh mình khuất nẻo, con gái lấy chồng kiến họ khác, có lẽ sự nghiệp ông gầy dựng bao năm phải chia năm xẻ bảy cho thân tộc hưởng hết, hoặc như vào tay con rể họ khác, thì chẳng khác nào làm mửa mật để thiên hạ ngồi không hưởng danh. Ông Nhơn không ham tài phú nhưng ông quý trọng cái danh của mình, ông coi việc thay tên đổi họ của cơ nghiệp tự thân ông gầy dựng là sự báng bổ đau đớn hơn cả cái chết.
Vốn bản thân ông Nhơn không quan trọng trai gái, bề nào ông cũng thương yêu vun vén cho tròn được hết, miễn sao con mình có tài sức cáng đáng sản nghiệp mà thôi. Ngặt một điều, cô Nghĩa làm đẹp thì khôn chứ làm ăn thì dốt, lúc này ông tức đến cắn răng dậm chậm thì cũng đã muộn. Tuổi ông giờ này muốn thêm đứa con nối dài sự nghiệp, thì quả thực có lòng mà không có sức.
Thì thôi không cậy được con vậy mình trông vào cháu, hại gì đâu.
Ông Nhơn thường quyên góp hội phước thiện nhằm lập quỹ khuyến học ở các trường, lại trợ giúp sách vở bút mực cho mấy nhà mồ côi trong cả giáo xứ lẫn chùa chiền. Ông làm thế từ cái lòng thiện cũng có, nhưng chỉ một nửa, còn mua danh chuộc tiếng là phân nửa còn lại, đời mà, ai cho không ai cái chi đâu. Trợ giúp sự học hành cho thiên hạ, vừa cứu khổ kẻ cơ hàn cũng vừa được tiếng thơm lời lành, lại càng dễ bề chen chân vào mấy nhà giàu cũng ưa làm phước, bán buôn sẽ càng xuôi chèo mát mái, dại chi mà không làm. Còn một cái mục đích cũng cấp thiết không kém, nhưng chỉ suy tính thầm kín trong bụng chứ không rêu rao, chính là tìm chọn đám học trò ở những nơi ông bảo trợ kia, tìm ra người chồng có học lại ưng chịu ở rể, cho con gái nhà ông sau này nữa.
Con gái ông Nhơn tên là Võ Thị Nghĩa, ông thương con gái rượu cũng nhiều, mà sợ sự nghiệp cả đời gầy dựng hao đi mất càng nhiều hơn.
Bổn ý của ông Nhơn là sau này con gái ông có con thì cháu ông phải lấy họ Võ, gia sản cùng sự nghiệp được ông thuê trạng sư làm giấy thừa kế, kí tên điểm chỉ rõ ràng.
Về phần sự nghiệp thì toàn quyền thuộc về cháu ông, ông sẽ ra công nuôi dạy dẫn dắt, cháu ít thì quản hết còn cháu đông thì chia ra quản. Nếu lỡ ông khuất nẻo sớm mà cháu ông chưa thành niên thì con rể chỉ đứng đại diện hãng buôn nhằm thâu góp huê lợi mà thôi, khi nào cháu ông lớn thì phải trả lại cho cháu ông chia nhau quản lý.
Bề sự nghiệp ông nhất mực coi trọng, nhất thiết phải chọn người chung họ lại có tài, còn bề gia sản của cải thì ông thoáng hơn.
Phần gia sản, gồm hồi môn của vợ và tài sản riêng của ông Nhơn được thừa kế từ ông thân khi xưa, có bạc tiền cùng nữ trang và đất đai nhà. Phần hồi môn của vợ dĩ nhiên thuộc toàn quyền cô Nghĩa, tài sản riêng của ông thì chia ra một phần cho con phần còn lại dành cháu. Nhưng gia sản ấy, chỉ khi nào ông nhắm mắt nằm xuống, thì con cháu mới được mó tay chia chác, còn ví như ông đương mạnh khỏe sung sức thì hàng tháng ông chỉ phát tiêu vặt cho xài mà thôi. Phần con rể, có góp công thì có phần tiêu vặt y hệt con cháu trong nhà, tuy nhiên phần đấy ông xem là “trả lương” chứ không phải thừa hưởng. Ví như sau này ông nhắm mắt xuôi tay không quản được, con gái có vì thương chồng rồi dâng bạc tiền cũng chỉ trong phần hồi môn của má cô để lại mà thôi, còn sự nghiệp cả đời ông gầy dựng tự hào, thì không được phép hao hụt, không được sang tên đổi họ dù chỉ mảy may.
Mọi sự ấy ông làm kín đáo, chỉ ông và trạng sư hay với nhau, chứ không cho cô Nghĩa biết. Ban đầu kế hoạch của ông hòm hòm là thế, nhưng chưa chọn lựa được chàng rể ưng ý thì con gái ông đã tự mình kiếm chồng xong xuôi hết rồi.
Chàng rể con gái ông chọn là một anh chàng sáng láng, tầm tuổi với cô Nghĩa, tên Nguyễn Thành Trung. Anh này là một học trò quê Thủ Dầu Một, vai vế em út trong nhà, trước có hai anh trai và một chị gái đều đã lập thân ra riêng hết thảy từ lâu. Tía má anh ta tuổi già đẻ mót đứa con trai, hai đầu thân sanh cũng ráng nuôi dưỡng anh ta, ngặt cái nỗi tuổi già có lòng không sức, hai cụ đã khuất núi từ hồi anh ta nhỏ xíu.
Ông thân anh ta trước làm ký lục (7) chạy việc có xíu tiếng tăm, bà thân lại là con gái nhà vườn trồng sầu riêng được cho của hồi môn là đất đai cũng bộn. Gia cảnh trong nhà cậu Trung sau khi hai cụ nằm xuống, phân chia đều cho các con, phần anh ta nếu sống thanh nhàn cơ bản thì cũng không túng rối chi lắm.
Cậu Trung vô Sài Gòn ở đậu nhà ông cậu bà con bên họ ngoại, đặng theo học trường Tây. Cô Nghĩa gặp cậu Trung lần đầu trong một bữa theo cha góp tiền phước thiện, nhằm xây thư viện cho trường cậu Trung đang theo học. Trái tim thiếu nữ non tơ đã đập những nhịp thật rộn ràng, trước một thanh niên tân học sáng sủa cao ráo vận sơ-mi quần âu, nước da nõn trắng với sóng mũi dọc dừa và cặp nhãn long lanh hàm tình. Hai bên đưa mắt đong lời qua lại trao đổi, ngó bộ rất tâm đầu ý hiệp. Sau nửa năm hò hẹn, đôi đàng trai gái hiệp lại làm dạm hỏi, giấy hôn thú, cuối cùng một đám cưới rình rang nở lòng nở dạ được tổ chức.
Cậu Trung lấy được bằng Tú tài đệ nhị (8) thì cũng thôi không học lên cao nữa. Được trời phú sự khôn ngoan linh lợi nên cậu ở nhà phụ giúp cha vợ làm sổ sách giấy tờ, cuối tuần ngồi xế hộp với vợ đi coi cải lương, múa bóng rỗi, nghe hát đờn ca hoặc xem xi-nê, cuộc sống cũng thiệt vui vầy nhàn nhã, ái ân dạt dào.
Ấy vậy cũng có những khi không thuận buồm xuôi gió cho lắm, bởi cậu mợ lấy nhau mấy năm ròng rã vậy mà vẫn không có con chi cả. Hai vợ chồng đành dắt díu nhau đi khám đốc-tờ tây thì được phán rằng mợ Nghĩa lạnh bụng khó đậu thai. Ông Nhơn bực ở trong người ngặt nỗi không có chỗ trút giận, bởi sự quấy xuất phát từ con ông, thì biết như nào cho được? Chỉ đành bấm bụng cắn răng nín thinh chớ còn biết làm sao.
Mợ Nghĩa được cha yêu chiều vốn tính tình đỏng đảnh, nhưng cũng thiệt tâm thiệt bụng thương yêu chồng mình, mợ sầu khổ buồn thảm nằm liệt không chịu cơm nước sửa soạn chi hết, cha gọi không thưa, chồng hỏi không đáp. Nằm ri rỉ khóc than chừng non tháng thì mợ bỗng vùng chăn đạp chiếu, gọi chồng mời cha ra gian chính thưa chuyện.
“Con nằm suy nghĩ muốn bể đầu nát óc độ rày, con quyết chí rồi cha à, phải lấy mợ nhỏ cho chồng con thôi, đặng chồng con nối dõi tông đường, kéo dài hương hỏa.”
Ông Nhơn mặc áo chích (9) lụa đen, ngồi chống chân cuốn thuốc lá bên cái bàn con kê trên bộ ngựa (10) ngay góc nhà, nghe mợ Nghĩa nói thế bỗng dừng tay đang vê giấy. Ông nghiêng mái đầu muối tiêu búi củ hành không quấn khăn của mình, đưa mắt ngó sang cái bàn đặt dưới ban thờ giữa nhà chỗ con gái và con rể đang ngồi. Ông không nói chi mà cứ nheo cặp mắt sáng quắc vẫn sắc sảo như thời trai tráng, nhìn chằm chằm khuôn mặt y chang mình kia của mợ Nghĩa. Có câu con gái giống cha giàu ba cửa họ, ông cưng chiều Hai Nghĩa cũng bởi cái lẽ ấy.
Không khí trong phòng quánh đặc lại trong từng nhịp hít vô thở ra, như cái đìa dưới nắng chói chang dần dần rút nước khô mặt, nhốt chặt mấy con cá con cua giữa bùn sình, thoát không ra mà ở không xong, sống không dài mà chết thì chưa.
Hai Nghĩa ban đầu còn dám nhìn thẳng cha mình, về sau thì lại từ từ cúi đầu xuống nhìn mấy cái viền chỉ trên tấm áo bà ba lụa đang mặc.
Cậu Trung không nhìn thẳng ông Nhơn hay mợ Nghĩa, cậu cứ đăm đăm ngó trái dừa dùng ủ ấm trà đặt trên bàn, như thể trái dừa ấy là cục vàng chói lói quý báu chi đó. Lúc nghe vợ nói dứt câu vẫn im thin thít không hó hé gì cả.
“Cha chả. Bây khéo nói chuyện dữ hông.” Giọng ông Nhơn nhẹ nhàng như khói, hơi xen chút âm cười mỉa.
Ông nhìn chằm chằm hai người một lúc lâu mới tặc lưỡi rồi cúi xuống tiếp tục vê giấy quanh sợi thuốc, đâu vào đấy ông cầm điếu thuốc lên liếm một đường vào giấy thừa rồi xoắn thêm lần nữa cho dính chặt. Điếu thuốc thuôn tròn được ông đặt lên mép miệng có một vòng râu dài như râu cá trê của mình, ông rút que diêm trong bao rồi đánh lửa một nhát dứt khoát, khum tay cúi đầu đốt thuốc. Khi thuốc đã cháy hồng, ông phẩy nhanh bàn tay nhăn nheo để dập tắt que đóm mồi. Ông mím môi rít một hơi dài đầy buồng phổi, nheo mắt lim dim ngậm khói thuốc trong miệng độ vài giây mới ngửa đầu nhả ra.
“Mầy trả lời tao câu này coi, con hai.”
Ông Nhơn ngồi thư thả trên bộ ngựa, một bên hút thuốc một bên rót trà ra ly nhỏ từ cái ấm men xanh đặt trên bàn, nói pha lửng. (11)
Hai Nghĩa vẫn cúi đầu vân vê vạt áo, lí nhí bẩm thưa.
“Dạ cha dạy biểu, con xin nghe.”
_
*Chú thích:
Hãng buôn Hưng Võ là một doanh nghiệp hư cấu, không có thật.
(1) Tranh gói vải: Một dòng tranh dân gian Nam Bộ đặc sắc.
Quy trình rất kì công: Vẽ màu lên tranh, tiếp đến các chủ thể người-vật-cảnh thì độn bông cho nổi lên khỏi nền, cuối cùng đắp vải màu phủ kín lên trên lớp bông ấy.
(2) Trước khi giải phóng, ở Việt Nam tồn tại ba hình thức giáo dục.
Nho học: Hay còn gọi là Cựu học. Giáo dục phong kiến.
Tân học: Giáo dục thực dân.
Tây học: Hay còn gọi là Du học. Giáo dục ngoại quốc.
(3) Lơ-muya: Phiên âm từ Lemur.
Một dạng áo dài cách tân ra đời khoảng 1930, xuất phát từ chủ một tiệm may nổi tiếng Hà Nội - Họa sĩ Nguyễn Cát Tường, nghệ danh Lemur Cát Tường - Xuất hiện lần đầu trên mặt báo Phong Hóa, số Xuân 1934 khởi xướng bởi chủ bút Nhất Linh.
(4) Bóp-tơ-phơi: Phiên âm từ Portefeuille, một từ tiếng Pháp có nghĩa là ví tiền.
(5) Phong hóa: Từ ghép của phong tục và giáo hóa (văn hóa - giáo dục). Có nghĩa là nếp sống, tập quán và phong tục của một xã hội nói chung.
(6) Duy kiến: Từ ghép của tư duy và chính kiến.
(7) Ký lục: Hay gọi là thầy ký. Vị trí làm công việc ghi chép sổ sách quản lý giấy tờ, tương tự còn có chức Thông ngôn (thầy thông). Thầy ký không yêu cầu phải có bằng cấp chính quy như thầy thông. Tham khảo Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển, Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, 2004.
(8) Tú tài đệ nhị: Thời kì thực dân chia ra bằng Tú tài I (Tú tài đệ nhất) kì thi cuối năm lớp 11 và bằng Tú tài II (Tú tài đệ nhị) kì thi cuối năm lớp 12.
(9) Áo chích: Kiểu dáng như bà ba nhưng ngắn tay, người lớn tuổi hay mặc như đồ mát ở nhà.
(10) Bộ ngựa: Tấm phản lớn bằng gỗ dày có chân đế ở miền Nam, có khi còn gọi là bộ đi-văng hoặc đi-quăng.
(11) Pha lửng: Nói chuyện kiểu vui đùa, nửa chừng, lấp lửng. Tương tự như pha trò.


Bình luận
Chưa có bình luận