“Mẹ, mẹ nhìn đi nào là cau Châu Địa Lý, rượu đất La Thành, Ngọc trai Châu Vạn Xuân,… còn chưa tính đến vàng bạc châu báu và 2 đàn trâu ngựa Nghệ Châu phía ngoài. Mẹ nói xem có phải Thái uý cũng coi trọng mối hôn sự này quá rồi hay không?”
Trong gian phòng chứa lễ vật nạp sính được mang qua từ phủ Thái uý, Lý Ngọc Trâm cùng mẹ mình nhìn những sính lễ được mang đến trầm trồ không thôi. Biết trước rằng là hôn sự vua ban, lễ vật chắc chắn sẽ không tầm thường được. Nhưng lúc sáng khi đoàn nạp sính của phủ Thái uý mang chiếu hôn thư đến, lúc đọc chiếu hôn đến mười hai phần sính lễ thì ai nấy cũng đều cả kinh không thôi. Mười hai phần sính lễ, dù chỉ là mâm trầu cau cũng đã là loại trầu cau Châu Địa Lý quý nhất.
Nguyễn Ngọc Dung nhìn dáng vẻ hết trầm trồ đến tủi thân của con gái thì không khỏi đau lòng.
“Con đừng nhìn thấy dáng vẻ hào nhoáng bên ngoài, mối hôn sự này đều là ý đồ của Thánh thượng cả. Thái uý và Lý Diệu An kia chỉ mới lần đầu gặp gỡ, nói gì đến xem trọng không xem trọng.”
Lý Ngọc Trâm vẫn hậm hực:
“Mẹ nói xem nếu mối hôn sự này, tân nương được chọn tứ hôn lần này là con thì có phải sẽ tốt hơn Lý Diệu An kia không? Mẹ con chúng ta sẽ đươc hưởng chuỗi ngày phú quý về sau, cũng không cần bị xem nhẹ vì là dòng kế thất nữa.”
“Con đừng để những thứ này làm lu mờ tâm trí, Thái uý kia nổi tiếng tàn ác, ngay cả cha mình cũng dám lật đổ mà đoạt quyền. Con nghĩ gả qua đó sẽ có kết cục tốt hay sao? Con xem, trong thành Thăng Long này còn biết bao nhiêu nhà quyền quý, đến lúc con gả đi, cha con chắc chắn sẽ không để sính lễ của con thua thiệt Lý Diệu An kia.”
Nguyễn Ngọc Dung vỗ về con gái, miệng tuy là nói vậy nhưng trong lòng bà ta cũng biết rõ, dù là nhà quyền quý thì sính lễ cũng không thể bằng được huống chi đây còn là hôn sự vua ban. Dù vậy bà vẫn không cam lòng để con gái mình thua thiệt. Nửa đời bà ta không thể thắng nổi mẹ của Lý Diệu An phải chịu thân làm kế thất, bà ta không thể nào để con gái mình cũng thua Lý Diệu An được. Nói đoạn bà ta bước nhanh về thư phòng của Thái Y Lệnh.
Lý Văn Quang đang tính sổ sách hồi môn cho Lý Diệu An thì Dung thị bước vào nhìn thấy liền hỏi:
“Giờ này rồi mà người vẫn còn đang nhọc lòng vì hồi môn của đại nương sao?”
“Chỉ còn hai ngày là đến đại hôn, mọi sự đều có phần cấp bách, nàng cứ nghỉ ngơi sớm đi.”
“Hây… thật ra thiếp có lời vẫn luôn canh cánh trong lòng không biết có nên nói với người không?” Lý Ngọc Dung đi đến lấy áo choàng khoác lên người cho Lý Văn Quang sau đó thở dài thườn thượt, giọng điệu định nói lại thôi. Lý Văn Quang thấy vậy liền hỏi:
“Phu nhân có điều gì trăn trở cứ nói.”
“Thật sự nói ra không sợ người nói kế mẫu này không thương con gái riêng của chồng, nhưng lời thật lòng thì thường làm tổn ý nên thiếp cũng xin nói thẳng. Hiện tại trong nhà vẫn tính là dư giả người tính đến hồi môn cho Diệu An là chí phải. Nhưng sắp đến thuốc thang trong phủ cũng cần mang đi hỗ trợ quân lữ, mà kho thuốc cũng không còn bao nhiêu phải cho người đi tìm hái, đến lúc đó còn cần dung rất nhiều ngân sách. Nay Diệu An cũng xem như đã gả vào cửa lớn, phủ Thái uý chắc cũng sẽ không chấp đến hồi môn nhỏ nhặt nhà mình. Đỡ cho người phải thức khuya nhọc lòng toan tính, Diệu An là đứa hiểu chuyện hiền lương ắt sẽ không oán trách chi đâu.”
Lý Văn Quang nghe xong lại nghĩ đến sáng nay, vừa đúng giờ Thìn, sương sớm cũng vừa tan đã thấy đoàn nạp sính của Trần phủ đến trước cửa.
Cờ tiết đỏ rực tung bay, cờ vàng thêu rồng phấp phới dẫn đầu, tạo nên cảnh tượng huy hoàng. Người hai bên đường dồn đến xem, chỉ thấy một đoàn người chỉnh tề, áo mũ ngay ngắn, bước đều theo nhạc trống, khiến ai nấy vừa kinh ngạc vừa trầm trồ.
Đi đầu là hàng quân sĩ hộ tống, mình khoác áo giáp da, giáp sắt đánh sáng, đầu đội khôi đồng chạm trổ văn mây, tay cầm trường mâu, khiêng tiết việt. Ánh nắng phản chiếu khiến hàng giáp sáng rực, uy phong lẫm liệt. Theo sau là đội nhạc lễ mặc áo dài đối khâm màu xanh thẫm, thắt đai lụa, đầu chít khăn vuông, tay gõ trống, thổi sáo, tiếng nhạc rộn rã mà trang nghiêm.
Đoàn bưng lễ chỉnh tề từng hàng mỗi người vận áo viên lĩnh màu chàm hoặc nâu nhạt, thắt dây lưng đỏ, đầu đội khăn vấn, tay nâng hòm son, tráp gấm. Những hòm lớn được phủ vải điều, trên dán giấy hồng đề tên lễ vật: nào là lụa tơ Giao Châu, gấm vóc Thiên Trường, nào là trầu cau vùng Châu Địa Lý, rượu Luy Lâu thơm nồng, cùng hòm bạc, ngọc trai, vàng quỳ sáng rực.
Nghĩ đến đây ông ta lại trầm ngâm:
“Có thể như vậy thật sao? Dẫu gì nó cũng là con gái của ta, là đại nương nhà Thái Y Lênh, nếu gả đi mà không có của hồi môn thì người đời còn xem ra thể thống gì?”
“Người cũng thấy đó, Diệu An may mắn đc tứ hôn cùng Thái uý, gả đi đã có mâm cao cỗ đầy thì người ta cũng chẳng coi trọng tí của hồi môn nhà mình. Chưa nói đến người đã quên mình còn một đứa con gái hay sao? Chỉ thương cho Ngọc Trâm không biết sau này nó có được may mắn như vậy không? Nếu dành phần lại thì biết đâu còn có cơ hội gả cho một nhà tốt. Nếu không thì chắc cũng phải chịu cảnh làm thê thiếp như mẹ mình… Hức…”
Nói đến đây Dung thị liền đưa tay lau nước mắt như thể đã chịu biết bao nhiêu là hờn tủi. Lý Văn Quang nhìn thấy mà lòng cảm thấy áy náy vô cùng. Chỉ vì khi xưa lòng mang nặng công danh nên ông đành phụ Dung thị để cưới mẹ của Lý Diệu An là Dương Cẩm Vân.
Cha của Vân thị - Dương Đạo Khiêm lúc bấy giờ đương giữ chức Thái Y Lệnh, mà lúc ấy Lý Văn Quang mới chỉ vừa lên chức Y Chính. Cha của Vân thị vô cùng hài lòng với tướng mạo cùng tài năng y thuật của Lý Văn Quang nên có ý tác hợp với con gái độc nhất của mình, nếu Lý Văn Quang ở rễ thì sẽ được kế thừa chức Thái Y Lệnh sau này.
Lý Văn Quang tuy đã có ý trung nhân tại quê nhà nhưng vì công danh trước mắt, lấy con gái nhà Thái Y Lệnh sẽ có lợi hơn nên cũng thuận nước đẩy thuyền. Nhưng sau 1 năm, ý trung nhân của Lý Văn Quang là Nguyễn Ngọc Dung cũng tìm đến, cả hai lại dây dưa không dứt cuối cùng nối lại tình xưa trong âm thầm lén lút. Mãi sau này khi Vân thị mất, ông ta mới có thể đường hoàng rước mẹ con Nguyễn Ngọc Dung vào phủ. Vì vậy đối với mẹ con Dung thị ông ta vẫn mang áy náy cùng hổ thẹn trong lòng. Ông ta nhẹ nàng an ủi, vỗ về Dung thị vẫn còn đứng bên lau nước mắt tủi hờn:
“Phu nhân yên chí, ta sẽ không để con gái chúng ta phải chịu bất kỳ ấm ức, tủi thân nào đâu.”
Sáng hôm sau, gà chỉ vừa gáy, Lý Diệu An chuẩn bị hành trang xong xuôi tất thảy, dự định đi vào rừng tìm thuốc thì gia nô đến báo rằng Thái Y Lệnh cho gọi nàng. Lý Diệu An thầm nghĩ có lẽ là vấn đề hồi môn của nàng. Mặc dù nói là không kỳ vọng gì nhiều nhưng nàng cũng rất mong chờ cha sẽ cho mình hồi môn gì.
Nàng bước vào chính sảnh, Lý Văn Quang cùng Nguyễn Ngọc Dung đã ngồi chờ sẵn, bên cạnh còn có Lý Ngọc Trâm. Lý Văn Quang ra hiệu cho nàng ngồi xuống, nói:
“Ngày mai đã là ngày đại hôn của con, hẳn con cũng biết lý do ta gọi con tới đây.”
Lý Diệu An nhẹ nhàng đáp:
“Con gái biết thưa cha.”
Lý Văn Quang nghe đáp xong thì thở dài một hơi, nhìn nàng trầm giọng:
“Con cũng biết nhà ta xưa nay cũng chẳng dư giả gì, nay phủ gặp không ít khó khăn, ngân khố hạn hẹp, lại còn phải lo việc chữa trị cho các quan trọng thần… của hồi môn nàng, cha e rằng khó chu toàn.”
Mẹ kế liếc sang, môi mỉm cười nhưng sắc mặt vẫn lộ vẻ toan tính:
“Đúng vậy con gái, của hồi môn cũng chỉ là vấn đề lễ nghi. Nay được Thái úy chọn, vốn đã là phúc phận ngàn vàng, đâu cần bày biện thêm, có hây không thì với phủ Thái Uý cũng chẳng đáng là gì. Nhưng đối với phủ ta thì lại bớt đi được một phần gánh nặng cho cha con, cũng là giữ hòa yên cho phủ này. Chỉ sợ đem ra sẽ làm mất thể diện của phủ, và… có khi còn gây phiền phức thêm. Con nên hiểu, cha con làm thế cũng vì yên ổn phủ.”
Lý Diệu An thoáng sững người, thật sự không dám tin vào những gì mình vừa nghe. Nàng vốn cũng không mong chờ của hồi môn của mình sẽ là mâm cao cỗ đầy, nhưng cũng không từng nghĩ đến việc chính ngày thành thân của mình lại chẳng có nổi chút hồi môn. Nói gì mà để yên ổn phủ? Chẳng qua chỉ là không muốn cho nàng mà thôi.
Trái tim nàng run rẩy, trong mắt ánh lên vẻ kinh ngạc cùng đau xót. Từ sau khi mẹ nàng mất, bao năm sống trong phủ, nàng chỉ biết chịu đựng cảnh bị mẹ kế lấn lướt, cha cũng chẳng màng. Nàng biết kể từ đó bản thân vốn chỉ còn lại cái danh đại nương nhà Thái Y Lệnh, ngoài ra ai mà không biết địa vị của nàng vốn chẳng được coi trọng… Tất cả ký ức bất chợt ùa về trong tâm trí nàng. Nàng biết địa vị mình thấp kém, chẳng thể cãi lời.
Nàng khẽ cúi đầu, giọng nhỏ đi, cố giữ cho bình thản:
“Con… con gái đã hiểu. Chỉ mong cha an lòng, con nguyện chẳng oán trách.”
Lý Diệu An khẽ cúi đầu, hàng mi rợp xuống che đi ánh nhìn ngấn lệ. Một lát sau mới cất lời tiếp tục thưa:
“Thưa cha, con vốn định sẽ vào núi tìm thuốc. Nếu chuyện đã quyết xong con xin phép thối lui.”
Thái Y Lệnh nghe xong thì hơi chau mày, nghiêm giọng:
“Không được. Ngày mai đã là đại hôn, chẳng may có điều đi sơ suất thì khó lòng ăn nói với Thánh thượng. Con hãy nên về phòng nghỉ ngơi, dưỡng sức mới phải.”
Mẹ kế ngồi bên nghiêng người, đôi mắt thoáng ánh cười, lời nói mềm như mật mà rắn như dao:
“Phải đó. Thuốc thang vốn là việc thường ngày, đâu cần đích thân con. Điều cần nhất bây giờ là giữ dung nhan, để ngày mai rạng rỡ trước mặt bá quan văn võ không lại làm xấu mặt gia môn.”
Từng lời rơi vào tai, Lý Diệu An cảm thấy bản thân thật sự không thể ở lại nghe thêm bất kỳ lời nào nữa. Lòng quặn thắt, nhưng ngoài mặt nàng vẫn cúi rạp, hai tay chắp trước ngực, khẽ thưa:
“Con xin vâng.”
Nói rồi, nàng quay mình lặng lẽ lui ra. Tà áo lụa mỏng chạm nền đá, bước chân nặng nề như đeo chì. Nàng cố gắng bước đi thật nhanh, không dám quay mặt nhìn lại. Nàng sợ khi quay nhìn lại sẽ thấy gương mặt hả dạ, đắc ý của mẹ con Dung thị.
Khi đã đi xa sảnh đường, nàng thoáng ngẩng nhìn vòm trời xám nhạt ngoài hiên, ánh mắt phủ mờ một làn sương lệ. Giọt buồn dâng tràn, nàng vội nghiêng mặt, để lệ rơi lặng lẽ nơi khóe mi mà không một ai thấy. Chỉ còn bóng lưng mảnh mai ấy, như chiếc lá cuối mùa, lay động trong gió chiều, cô quạnh và yếu mềm.
Nàng bước vội về đến tư phòng, sau khi cánh cửa đóng lại, ánh mắt nàng vô tình chạm phải bộ hỷ phục treo ngay ngắn nơi giá gỗ. Lụa điều đỏ thắm như ánh lửa, song trong mắt nàng lại như một vầng mây nặng nề phủ xuống.
Nàng nhìn bộ y phục được chuẩn bị tỉ mỉ cho ngày trọng đại của mình, càng nhìn nỗi tủi thân trong nàng lại càng dâng trào. Nàng quay mặt đi, bước chậm đến bên giường. Vừa ngồi xuống, nàng không còn gắng gượng nổi, gục đầu vào gối, khóc nức nở. Nàng như không thể kìm nén tiếng lòng của mình nữa, cứ thế mà khóc, tiếng khóc run rẩy mà nghẹn ngào, như thể muốn trút bao niềm uất ức chất chứa từ lâu.
Nước mắt thấm ướt gối lụa, dần dần làm đôi mắt nàng nặng trĩu. Giữa những giọt lệ chưa kịp khô, Diệu An mệt mỏi thiếp đi, để lại căn phòng tĩnh lặng, chỉ còn bóng hỷ phục đỏ như máu chao nhẹ trong gió khuya.
Trong giấc mộng, Diệu An như thấy mình đã trở về thuở nhỏ, khi đó nàng chỉ mới là một cô bé 7 tuổi. Mẹ nàng đang phơi thuốc trong sân dưới nắng sớm, còn nàng vẫn đang phải ngồi học thuộc từng loại thuốc khó nhằn. Khi đã quá chán nản vì học mãi chẳng thuộc cô bé vội chạy đến ôm chân mẹ phàn nàn:
“Mẹ ơi, con đã học cả ngày rồi mà vẫn không thể thuộc được những bài thuốc đó, con rất mệt. Mẹ ơi, tại sao con phải học những thứ này vậy ạ?”
Dương Cẩm Vân nhẹ nhàng xoa đầu con gái nhỏ, nhẹ nhàng trả lời:
“Chẳng phải Diệu An vẫn nói muốn trở thành một Ngự Y giống cha sao?”
Cô bé cúi gằm gương mặt bầu bĩnh của mình, đôi tay nhỏ vẫn nắm chặt vạt áo mẹ mình mà nũng nịu:
“Nhưng nhứng thứ kia quá khó nhớ, có thể nào con trở thành Ngự Y nhưng không cần học những thứ này không mẹ ơi.”
Người mẹ ngẩng lên, đôi mắt dịu dàng như hồ nước trong. Bà lấy một nắm lá, đưa ra trước ánh sáng, để con gái thấy từng đường gân mảnh mai.
“Con của ta, con hãy nhớ nhé, những điều tốt đẹp sẽ ở một nơi mà chính ta luôn phải tự tìm đến. Nếu không cố gắng thì mãi mãi ta cũng sẽ không thể tìm thấy những điều tốt đẹp của mình được. Con nhìn xem, một chiếc lá nhỏ bé thôi, cũng có thể giữ lại hơi thở cho người. Y thuật chính là như thế — dùng điều bình thường nhất, đổi lấy điều quý giá nhất. Đã là điều quý giá, dĩ nhiên là một thầy thuốc thì chúng ta cần phải cố gắng hơn thì mới có thể giữ lại. Ngoại tổ của con, cả cha và mẹ cũng vậy, chúng ta muốn giữ lấy càng nhiều mạng sống quý giá thì phải ngày ngày dùi mài, tường tận thuốc thang.”
“Mẹ, con đã hiểu. Con sẽ cố gắng, nhất định sau này con sẽ là một Ngự Y thật giỏi và cứu sống được nhiều người.”
Khoảnh khắc ấy tưởng như hạnh phúc còn vẹn nguyên. Thế nhưng cảnh vật dần nhòa đi, sắc vàng của ánh mặt trời bỗng nhiên hoá thành màu tro lạnh. Xung quanh chỉ còn một căn nhà hoang trống rỗng, mái dột, tường mục, gió thốc từng cơn rít qua khe hở. Trời tối âm u, tiếng cánh cửa gỗ kẽo kẹt vang lên khiến nàng rùng mình.
Một bóng người hiện ra ở ngưỡng cửa. Người đó đứng ngược sáng, toàn thân chìm trong ánh trăng mờ. Bóng ấy không nói lời nào, chỉ lặng lẽ nhìn nàng. Nàng sợ hãi định nói gì đó, nhưng cổ nghẹn lại, tim đập dồn dập. Ánh trăng chợt lay, bóng người đó đang dần tiến lại gần nàng, mỗi lúc một gần hơn.
“Á…!”
Diệu An giật mình tỉnh dậy, mồ hôi đã ướt trán, tim đập thình thịch. Căn phòng vẫn là căn phòng quen thuộc, ánh đèn dầu leo lét, ngoài song cửa tiếng gió đêm vẫn đang thổi qua khóm trúc xào xạc.
Nàng ngồi dậy, bàn tay áp lên ngực, thở hổn hển. Trong lòng còn đọng lại nỗi sợ, xen lẫn một tia cảm giác lạ lùng. Nàng khẽ lắc đầu, tự thì thầm:
“Chỉ là mộng dữ… mình mỏi mệt nên sinh ra ảo giác thôi.”
Dẫu cố trấn an, nàng nằm xuống rồi lại dần chìm vào giấc ngủ, nhưng hình ảnh bóng người ấy vẫn ám ảnh, khiến nàng thấp thỏm giữa ranh giới tỉnh và mơ.
Bình luận
Chưa có bình luận