Sâm nghe vậy thì lập tức bật người núp sau bộ tràng kỷ. Chỉ thấy một loạt đồng xu đang bay đến bỗng chốc bị một luồng chưởng lực vô hạn bóp nát thành những mạnh vụn. Nhưng mạnh vụn ấy tuy nhỏ nhưng vô cùng sắc nhọn. Tử Y hừ một tiếng, các mảnh vụn phóng về phía ba vị công tử kia, nghe tiếng gió cũng biết tốc độ khủng khiếp tới mức nào. Nãy giờ chứng kiến, thì xem ra võ công của ba người đều không kém. Họ cũng đã chuẩn bị bèn dùng chưởng lực chống đỡ. Nhưng rồi mặt sàn dưới chân họ bỗng nhiên nứt vỡ, vô số mảnh gạch nhọn hoắt hướng về cơ thể họ từ phía dưới, chĩa thẳng vào mặt và yết hầu. Công tử Lưu và công tử Kiện mồ hôi vã ra như tắm, đều nhìn những mảnh gạch đó một cách kinh hoảng. Nếu bị trúng chiêu này, thì cơ thể họ chỉ có nát như tương bần.
Tử Y vẫn cười một cách lạnh lẽo, bàn tay khẽ giơ lên chầm chầm xoay một vòng. Những mảnh vụn gạch đá theo bàn tay điều khiển của cô ấy, đã chĩa lên rất gần. Đúng lúc ấy, từ một góc nhỏ vang lên tiếng nói của Tì Hưu:
- Hết giờ hốt rồi, mong cô nương lưu tình.
Tử Y đánh mắt sang bên ấy, thấy Tì Hưu đứng chắp tay vô cùng lễ phép, nhưng khuôn mặt lại thoáng ý cười, xem ra gã đã căn thời gian rất chuẩn. Tử Y hừ một tiếng rồi buông tay, gạch đá đồng loạt rơi xuống đất, hai vị công tử kia cũng ngã theo, toàn thân nhũn như con chi chi. Chỉ có công tử Lập là vẫn đứng vững. Tử Y trở về vẻ thờ ơ như cũ, lạnh nhạt nói:
- Ta chơi chán rồi, ván này không lấy tiền của mấy người.
Nói rồi, Tử Y phất áo bỏ đi. Gia nhân có khoảng bốn năm người cũng lục tục chạy theo sau. Lúc này, Diệp Đằng cũng ra hiệu cho Sâm ra về. Trước lúc đi, còn cố tình vạch ngực áo ra xem thử, để một tia sáng đỏ lọt ra.
Quả nhiên vừa ra đến cửa là có người đi theo. Ba người nhóm Diệp Đằng cố tình đi vào khu ngõ vắng. Rồi giả vờ bảo nhau đi mua đồ ăn, để Sâm ở lại một mình. Sâm tiến đến một bức tường, giả bộ đi tiểu. Ngay lập tức người kia áp sát lấy, bẻ quặt cánh tay Sâm ra sau lưng, miệng quát lớn:
- Đưa linh thổ huyết ra đây.
Sâm liếc mắt về phía sau, vẻ công tử bột mấy ngày nay bỗng nhiên không còn nữa. Lập tức vung tay túm lấy cánh tay của kẻ kia. Hắn ta cũng không phải dạng vừa, ngay lập tức biết đây là một cái bẫy liền tung người bay lên nóc nhà bỏ trốn. Thế nhưng vừa mới đặt chân xuống, còn chưa biết nên chạy hướng nào, hắn đã bị một đạp đạp thẳng vào giữa ngực, rơi xuống dưới đất. Sâm đứng chờ sẵn ở dưới, tung lưới định tóm lấy, lại thấy tên kia lôi từ trong người ra một cái lọ nhanh tay ném xuống đất. Chiếc lọ vỡ tan, từ trong đó bay ra vô số ve sầu. Sâm bị đám côn trùng này bu lấy, vội vàng hất lưới sang 1 bên để chống đỡ. Tên áo đen đáp đất an toàn, ba chân bốn chẳng chạy vào các con ngõ ngoằn nghoèo. Diệp Đằng trên mái nhà đuổi theo, chỉ một chốc là thấy được bóng lưng của hắn. Diệp Đằng phi thân nhảy xuống, tên áo đen không kịp đổi hướng, lao vào đúng tầm chân Diệp Đằng. Diệp Đằng xoay người đạp một cú như trời giáng. Tên áo đen đập lưng vào tường, xụi lơ một đống dưới đất, miệng thở hổn hển. Một ánh nến lọt khỏi khung cửa sổ soi rõ khuôn mặt tên áo đen, không ai khác chính là Tì Hưu. Linh thổ huyết là báo bối ngàn năm có một, đời nào gã Tì Hưu này chịu bỏ qua. Diệp Đằng vứt mặt nạ sang một bên, ghé sát mặt lại phía Tì Hưu, nhẹ giọng nói:
- Nhạc Phủ ta tám mươi mốt cửa rừng, bảy mươi hai động phủ, há lại để một tên như ngươi cướp mất pháp bảo. Mau mang trả ra đây.
- Thì ra là ngươi, thảm nào lại lợi hại như vậy.
Diệp Đằng nheo mặt lại, trên tay xuất hiện một nhánh cây, linh lực truyền qua làm nhánh cây bốc khói nghi ngút. Cậu dí sát nhánh cây vào yết hầu Tì Hưu, khuôn mặt vô cùng thư thái:
- Lần trước là do ta khinh xuất mới để người còn lại một mạng này. Ngươi có nghĩ mình may mắn đến lần thứ hai không?
Tì Hưu không rét mà run, rút ra trong người một túi càn khôn, lục lục tìm tìm một hồi, cuối cùng cũng tìm được đống pháp bảo ném trả cho Diệp Đằng.
- Ta trả cho ngươi là được chứ gì.
Linh Lan và Sâm đều đã đến, Diệp Đằng đưa pháp bảo cho hai người cất đi. Tì Hưu dịch người lên một chút, vẫn thấy nhánh cây của Diệp Đằng chĩa đến cổ họng bèn nhăn nhó:
- Các ngươi còn muốn gì nữa?
Diệp Đằng khẽ nhích nhánh cây thêm một chút, linh lực nóng bỏng đã chạm đến da thịt.
- Giờ mới vào chuyện chính mà, định đi đâu. Ta không tin một kẻ như người lại dám có ý đồ xúi giục yêu ma làm loạn Nhạc Phủ. Nói, là ai đã sai ngươi làm?
Mặt Tì Hưu trắng bệch, miệng khô đắng. Hắn nuốt nước bọt liên tục, hết nhìn xuống nhánh cây lại nhìn lên Diệp Đằng. Ánh mắt của Diệp Đằng vẫn lạnh lẽo, lực tay tăng dần theo mỗi khắc. Đúng lúc tưởng chừng như đã ép được Tì Hưu mở miệng, thì một tiếng ngựa hí vang xen đúng vào thời khắc quyết định. Ánh đèn lưu ly ở đâu đó bừng sáng, soi tới chỗ Diệp Đằng. Diệp Đằng nheo mắt lại, trong ánh đèn sáng trưng, chỉ thấy được một đoàn người ngựa đã tiến đến rất gần. Bên tai vang tiếng réo gọi của Tì Hưu:
- Quan Hoàng, Quan Hoàng mau cứu tôi với.
Tên Tì Hưu này quả thật là gian xảo, hắn thả ve sầu ra không chỉ để tấn công mà con để báo tin cho Quan Hoàng Bảy. Với khí thế bức người của quân lính Bảo Hà, xem ra không làm gì được nữa rồi. Diệp Đằng khẽ nghiên hai hàm rằng, đành miễn cưỡng đứng thẳng dậy. Tì Hưu chỉ chờ có thế, nhanh như cắt bò đến chỗ con ngựa đầu tiên, túm lấy chân ngựa mà khóc lóc:
- Quan Hoàng cứu tôi với. Hắn muốn giết tôi.
Ánh đèn lưu ly bị che bớt. Ba người nhóm Diệp Đằng lúc này mới nhìn rõ được người đang cưỡi con ngựa dẫn đầu là một vị tướng quân thân mang giáp vàng, trong vận áo đỏ, hàm én mày ngài vô cùng oai vệ. Diệp Đằng nhận ra người đang cưỡi ngựa cao cao kia chính là Quan Hoàng Bảy. Giữa bối cảnh rối ren, hiện tại cũng không biết ngài ấy đứng về phía Phủ nào nên tốt nhất là không nên ra mặt. Diệp Đằng đứng thẳng lưng, chắp tay vái một cái, hai người Sâm và Linh Lan cũng làm theo vô cùng cẩn trọng:
- Kính lạy Quan Hoàng Bảy. Nửa đêm rồi còn kinh động đến ngài, tại hạ xin có lời xá tội.
Quan Hoàng Bảy ghìm cương ngựa, đánh mắt nhìn xuống đống bùi nhùi bên dưới, vẻ mặt thoáng một chút khó chịu nhưng rồi nhanh chóng trở lại vẻ nghiêm nghị. Một phó tướng của ngài đi ngay phía sau hô lên:
- Xưng họ tên đi.
Lúc này, Sâm bước về phía trước, kinh cẩn tâu:
- Bẩm Quan Hoàng, tại hạ là Công tử Dương, người Kinh Thành. Đi cùng có tiểu đồng và người bạn nho sinh tên Hiên.
Thấy thái độ của ba người đều rất lịch thiệp, đúng quy củ, vị phó tướng kia xuống ngựa, đi lại phía ba người:
- Đã xảy ra chuyện gì?
Sâm bình tĩnh đáp:
- Bẩm tướng quân, chúng tôi có một chút khúc mắc với chủ sòng đây, cũng chỉ là muốn nói chuyện cho rõ trắng đen phải trái. Thật không ngờ lại bị chủ sòng phản ứng dữ dội, cực chẳng đã mới phải dùng đến vũ lực.
Tì Hưu nghe vậy thì ngay lập tức gào lên, tay giơ ra chỉ chỉ trỏ trỏ:
- Các ngươi rõ ràng là muốn giết ta, đừng có mà ngụy biện.
Diệp Đằng từ đằng sau tiến lại, đôi mắt dưới ánh trăng bỗng chuyển sang màu hổ phách nhạt, dù chắp tay về phía vị phó tương kia nhưng lại nhìn xoáy vào gương mặt của Tì Hưu, môi nở nụ cười nhạt:
- Thưa tướng quân, chúng tôi cũng không phải người muốn đôi co, ai đã làm gì thì tự bản thân biết. Nếu vạch trần hết tất cả, thì cũng là cá chết lưới rách. Nên chăng vẫn là ngồi lại với nhau nói chuyện hòa nhã thì hơn.
- Ta không có gì nói với ngươi cả.
Tì Hưu vẫn còn cãi bướng. Nhưng rõ ràng Quan Hoàng Bảy cũng biết tên này là một tên đê tiện. Quan Hoàng Bảy tung người xuống ngựa, túm lấy Tì Hưu, đẩy hắn về phía sau giao cho các binh lính khác. Bản thân trực tiếp đi tới đứng trước mặt ba người Diệp Đằng, giọng nói của ngài trầm thấp:
- Chủ sòng đây là người của ta, nếu hắn có lỡ lấy vàng bạc của ba vị, ta sẽ đền gấp đôi. Các vị tha cho hắn đi.
Sâm định lên tiếng nhưng bị Diệp Đằng giữ lại. Nếu làm găng quá, lại cũng thành ra xôi hỏng bỏng không. Diệp Đằng biết rõ Tì Hưu không dám vạch trần thân phận của ba người vì nếu làm to chuyện hắn ngay lập tức bị bắt về Thoải Phủ. Thoải Phủ đang tranh thủ sự ủng hộ của chúng thần tiên, nếu bị Tì Hưu làm xấu mặt, e là kết cục của gã sẽ thê thảm lắm. Nhưng như vậy lại cũng khó cho việc điều tra xem ai là người xúi giục phía sau. Diệp Đằng suy nghĩ một chút, rồi lại thưa lên Quan Hàng Bảy:
- Bẩm Quan Hoàng, chuyện giữa chúng tôi và chủ sòng đây đúng là có liên quan đến tiền bạc, nhưng cũng không thể giải quyết bằng tiền bạc. Dù thế nào chúng tôi cũng muốn nói chuyện rõ ràng với gã. Nếu Quan Hoàng lo lắng cho sự an nguy của chủ sòng, vậy có thể sắp xếp giúp một căn phòng ngay trong phủ Quan Hoàng để chúng tôi có thể nói chuyện. Như vậy, ngài cũng không sợ chúng tôi làm gì gã.
- To gan – Phó tướng quát lớn – Lại dám ra điều kiện với Quan Hoàng, các ngươi chán sống rồi à?
Quan Hoàng Bảy giơ tay gạt đi, vậy mà lại có chút kính nể:
- Ý kiến của ngươi ta chấp nhận. Vậy mai giờ thìn các ngươi đến phủ của ta uống nước, đánh cờ rồi ta sẽ sắp xếp như lời ngươi nói.
- Tạ ơn Quan Hoàng.
Quan Hoàng Bảy gật đầu rồi phóng người lên ngựa, cả đoàn quan quân quay đầu đi trở về đường lớn. Diệp Đằng khẽ thở hắt ra, ra hiệu cho Sâm và Linh Lan đi về.
Về đến khách điếm, Linh Lan đi pha một ấm trà, lúc trở lại thấy sư thúc đang ngồi trên ghế, một tay gác lên bàn, tay còn lại đỡ lấy đầu. Còn Sâm thì ôm cây thương dựa người vào cột. Linh Lan khẽ khàng hỏi:
- Vẫn chưa suy nghĩ được cách cạy miệng Tì Hưu ạ?
Sâm đứng thẳng dậy, gõ thương xuống đất nghe cộc cộc:
- Tì Hưu tuy là người nhát gan, nhưng để mà so với thế lực đằng sau hắn, hẳn chúng ta không thể hung ác bằng. Hiện tại Quan Hoàng Bảy đã bảo kê cho tính mạng hắn, không thể dùng tính mạng để uy hiếp, hắn sẽ không nói thêm gì đâu.
Diệp Đằng bóp bóp trán. Những điều Sâm nói hoàn toàn đúng. Mặc dù Quan Hoàng Bảy đã đồng ý để Diệp Đằng đối chất với Tì Hưu, nhưng chính Diệp Đằng lại chưa có cách để Tì Hưu mở miệng. Căn phòng lại rơi vào im lặng, chỉ còn nghe tiếng dế kêu vọng đến. Linh Lan vốn không quen ngồi không bèn cho tay vào túi áo mò xem có gì chơi không, đột nhiên lại sờ phải một thứ gì hình tròn, ráp ráp, lông lông. Linh Lan lôi thứ trong túi ra, thì ra là mấy củ khoại sọ đã khô, Linh Lan mua hồi ở trấn Cổ Mễ. Giờ mà có bát canh khoai nấu sấu thì ngon biết chừng nào. Nghĩ đến đây, Linh Lan đột nhiên nhớ đến một người sống ở sơn trang Hàm Yên sau núi Bồng Lai của phủ Cô Đôi. Người ấy thường mặc áo màu vàng, gương mặt ít cười nhưng hiền hậu, tuy vậy lại cũng rất thích đồ quý giá, lúc nào cũng đeo vàng bạc châu báu kín người. Linh Lan kéo áo Diệp Đằng ghé tai hỏi nhỏ. Hỏi xong liền bẽn lẽn nói:
- Sư thúc, người để con thử nói chuyện với Tì Hưu được không?
- Được chứ - Gương mặt Diệp Đằng như trút được gánh nặng – Ta nghĩ việc này con sẽ làm được.
- Vậy con đi chuẩn bị.
Sáng hôm sau, ba người đến Phủ Quan Hoàng Bảy, Linh Lan mang theo một chiếc giỏ mây, phủ khăn chàm màu xanh. Binh lính gác cổng đã được dặn trước, lập tức dẫn ba người vào điện tiếp khách, nằm giữa một khu vườn nở đầy hoa rất đẹp. Quan Hoàng Bảy đi từ phía nhà trước sang, hôm nay ngài ấy không vận áo giáp mà chỉ mặc một bộ áo the bằng vải lụa bình thường, tóc búi gọn gàng về phía sau, thoạt trông lại giống một vị quan văn nhàn tản. Ngài vừa đến vì phất tay cho bính lính lui đi, xong rồi mới mời ba người Diệp Đằng ngồi xuống:
- Ta bận chút việc, vừa hay chỉ muộn có một chút. Ba người ngồi đi.
Nói rồi, Quan Hoàng tự tay pha trà, rót cho mỗi người một chén.
- Trà này là trà san tuyết cổ thụ, mọc tự nhiên trên núi Bảo Hà được mấy trăm năm rồi, hương vị ít nơi có được, cũng không có bán sẵn đâu. Đều là người trong phủ tự hái tự xao đấy.
Diệp Đằng nhấp một ngụm, quả nhiên là trà ngon. Cậu đặt chén trà xuống ngay ngắn, rồi mới hỏi:
- Chẳng hay Quan Hoàng đã biết thân phận của ba chúng tôi rồi phải không ạ?
Quan Hoàng Bảy trả lời:
- Ta không biết cụ thể, nhưng nhất định không phải ba người phàm bình thường. Người phàm nào lại có được Linh Thổ Huyết kia chứ.
Diệp Đằng khẽ cúi đầu cười nhẹ:
- Vậy ra trong số những người chơi hôm đó có người của Quan Hoàng Bảy cài cắm vào. Ngài cũng thật tinh mắt, đã nhận ra thân phận của Tử Y cô nương nên mới cho người theo dõi.
- Cũng là cẩn tắc vô áy náy thôi. Đang trong lúc rối ren mà. Mà thôi ta vào chuyện chính. Hiện tại Tì Hưu đang bị nhốt ở căn phòng đối diện, chẳng hay ba người có muốn sang nói chuyện với hắn luôn không?
Diệp Đằng vẫy tay gọi Linh Lan đến gần, rồi mới thưa:
- Bẩm Quan Hoàng, chỉ có một mình đồ đệ nhỏ của tôi vào nói chuyện với Tì Hưu thôi. Tôi và vị huynh đệ đây sẽ chờ ở đây cùng ngài.
Quan Hoàng Bảy nhìn Linh Lan khẽ ừ một tiếng. Linh Lan cúi đầu tạ Quan Hoàng rồi theo con đường đá giữa vườn hoa đi về phía căn phòng kia. Cửa phòng có 2 người lính đang đứng gác. Họ chào Linh Lan rồi mở cửa cho cô vào. Phía điện bên này Quan Hoàng Bảy đã bày ra một bàn cờ tướng, hỏi Diệp Đằng:
- Cậu có biết chơi cờ không?
Diệp Đằng mỉm cười lịch sự:
- Tại hạ cũng có biết một chút. Xin phép được tiếp Quan Hoàng.
*****
Linh Lan bước vào bên trong. Trong điện mát mẻ, bài trí cũng đơn giản. Linh Lan đặt chiếc giỏ mây xuống chiếc bàn hình tròn bày ở giữa phòng. Tì Hưu ngồi một bên, nhìn cô với ánh mắt chán nản.
- Hai gã kia đâu? Sao lại để cô đi một mình? Tính dùng mỹ nhân kế hay gì?
Linh Lan thở dài, ngồi xuống phía đối diện, ánh mắt nhìn vào chiếc giỏ mây:
- Ngươi biết đồ gì ở trong đó không?
Mặt Tì Hưu vẫn ỉu xìu:
- Vàng bạc châu báu hay là Linh thổ huyết? Định mua chuộc ta?
- Không phải. – Linh Lan lắc đầu – Thứ này rẻ lắm, chẳng phải mấy thứ ngươi vẫn ham muốn đâu.
Nói rồi Linh Lan kéo lớp vải che, bên dưới vậy mà lại là 1 bát canh khoai sọ với sấu đơn giản. Tì Hưu nhìn thấy thì khinh ra mặt, xì dài một tiếng, nói:
- Cái của nợ gì thế, sơn hào hải vị ta còn không thiết nói chi đến bát canh không đáng một xu này. Người Nhạc Phủ các ngươi cũng thật tiết kiệm quá lắm.
Linh Lan lườm gã, miệng lầm bà lầm bầm chửi nhưng không nói rõ lời. Mãi sau cơn giận nguôi ngoai, Linh Lan mới mở miệng nói:
- Ta mang bát canh này đến cho ngươi, đều là có mục đích cả. Ta nghe nói Long tộc khi có con với người khác, đều sẽ đem về Long ổ nuôi dưỡng ngay từ khi còn trứng nước. Vậy nên ngươi cũng vậy, chưa một lần gặp mẹ mình đúng không?
Tì Hưu hừ lạnh, chẳng buồn nhìn Linh Lan:
- Thì sao? Bà ấy có tồn tại hay không ta cũng chẳng quan tâm.
Linh Lan khẽ nhún vai, lần này ánh mắt nhìn thằng vào khuôn mặt Tì Hưu:
- Ngươi không quan tâm cũng chẳng sao. Nhưng mẹ ngươi thì lại luôn quan tâm ngươi đấy. Ngày nào cũng vào lúc hoàng hôn, bà ấy lại ngồi trên chiếc chõng che nhìn về phía đông để ngóng đợi. Đó chính là phía biển, nơi Long tộc sinh sống.
Tì Hưu không nói gì, mắt vẫn nhìn về phía cánh cửa đóng chặt. Linh Lan lại nói tiếp:
- Long tộc luôn không công bố rõ ra con cháu mình thuộc chủng tộc nào, nhưng nhìn qua hình thức thì ai cũng biết. Riêng với ngươi, dù hình thức không giống lắm, mẹ ngươi không đẹp bằng ngươi, nhưng cũng dễ đoán ra mẹ ngươi là thần thú thiềm thừ, chủ về chiêu lộc chiêu tài, thích vàng bạc châu báu. Bà ấy ở sơn trang Hàm Yên, ngay phía sau núi Bồng Lai, thuộc về Nhạc Phủ. Thỉnh thoảng ta có đến đó chơi, cùng ăn canh khoai sọ với bà ấy. Ta nghĩ ngươi cũng sẽ thích món canh này nên mang đến. Ngươi thử một chút đi.
Tì Hưu vẫn im lặng, nhưng ra điều cũng không từ chối. Linh Lan thấy vậy liền múc canh ra một chiếc bát nhỏ, đẩy đến trước mặt. Vừa làm miệng vừa nói:
- Núi Hàm Yên nơi mẹ ngươi ở lại rất đẹp, quanh năm đều có hoa nở, cây cối xanh tươi, vận khí dồi dào. Trồng cây gì cũng cho nhiều quả, nuôi con gì cũng lớn nhanh như thổi. Mẹ ngươi tuy rằng có rất nhiều vàng bạc châu báu, nhưng lại cũng hiền hòa lắm, lần nào ta tới người cũng bảo ta ở lại ăn cơm, còn cho ta một ít vàng phòng thân. Ta không lấy nhiều, nhưng luôn nghĩ bà ấy thực sự rất tốt. Chỉ là bà ấy vẫn luôn có một nỗi buồn phiền không muốn nói ra. Giờ thì ta đã hiểu, bà ấy là do nhớ ngươi mới như vậy.
Tì Hưu lườm Linh Lan, nhưng Linh Lan vẫn giữ thái độ hòa nhã:
- Chuyện ta nói đều là sự thực. Nếu không tin ngươi ăn thử bát canh này xem, ta đoán ngươi cũng sẽ thích, giống mẹ của ngươi vậy.
Tì Hưu vẫn giữ thái độ khinh khỉnh, nhưng cũng cầm muỗng lên, múc một muỗng. Canh vẫn còn độ ấm, nhưng lại vô cùng thanh mát, vị sấu chua chua hòa quyện với bị bùi bở của khoai sọ cùng nước hầm xương tan ra trong miệng. Mùi vị này Tì Hưu chưa từng nếm qua, nhưng lại cảm thấy vô cùng thân thuộc. Hắn khẽ thở dài, lại múc thêm một muỗng, vừa ăn vừa nói:
- Canh ngon lắm, ta rất thích.
Linh Lan biết mình đã gây được thiện cảm, bèn im lặng để Tì Hưu ăn, một lúc sau Linh Lan mới lên tiếng:
- Nhạc Phủ là quê ngoại của ngươi, cũng là nơi mà mẹ ngươi đang ở. Nếu không có trốn để về, hay ngươi về Nhạc Phủ đi. Ta cũng không ngại nói với ngươi, người pháp lực cao cường đi cùng với ta là sư thúc Diệp Đằng, đệ tử của Mẫu Thượng Ngàn. Người nói với ta chỉ cần ngươi chịu quay đầu là bờ, người sẽ cầu xin Cô Đôi và Mẫu Thượng Ngàn tha tội cho ngươi, để ngươi về núi Hàm Yên sống cùng với mẹ. Ngươi thấy thế nào?
Tì Hưu dừng muống, đôi mắt đã có chút ướt. Hắn cắn hai hàm răng lại, suy nghĩ một lát. Rất lâu sau, hắn ngẩng lên nhìn Linh Lan, hỏi lại:
- Ngươi đảm bảo Nhạc Phủ sẽ thu nhận ta chứ?
Linh Lan gật đầu chắc nịch:
- Ta thay mặt sư thúc đảm bảo với ngươi.
Tì Hưu thở hắt ra một tiếng. Đang định mở miệng nói thì một mũi tên xé gió xuyên thủng lớp giấy dán cửa, nhắm thẳng cổ họng Tì Hưu bắn tới. Tì Hưu giật mình hoảng sợ nhưng kịp thời tránh được. Hắn nhảy sang một bên, Linh Lan thì núp vội xuống gầm bàn. Lại thêm một loạt mũi tên bắn tới mà không biết người bắn là ai. Tì Hưu vội vàng tránh né. Bên ngoài tiếng bước chân vang lên rầm rập, là quân lính của Quan Hoàng Bảy. Tiếng binh khí va vào nhau leng keng, rồi thêm cả tiếng chưởng lực phóng ra mạnh mẽ. Tì Hưu đã bị ép sát đến cửa sổ, hắn đột nhiên biến ra cặp song đao vẫn hay sử dụng. Hắn nhìn Linh Lan với anh mắt bất lực rồi chém tung cửa sổ, tranh thủ lúc hỗn loạn mà trốn mất. Đúng lúc ấy thì Diệp Đằng và Sâm lao vào phòng. Linh Lan thấy người bên mình liền mau chóng hô lên:
- Tì Hưu bỏ trốn qua cửa sổ rồi.
Diệp Đằng nhìn theo dấu vết của Tì Hưu, dặn dò Sâm bảo vệ Linh Lan rồi trực tiếp đuổi theo. Sâm đứng chặn trước cửa. Linh Lan nhìn qua vai Sâm, thấy bên ngoài có một toán người áo đen đang đánh nhau kịch liệt với quân lính của Quan Hoàng Bảy. Những người này đều là cao thủ, phát hiện trong phòng đã trống không liền mau chóng thu quân, bay người qua mái điện trốn mất. Phó tướng của Quan Hoàng Bảy xông vào phòng, nhìn thấy Linh Lan liền hỏi thăm xem cô có làm sao không. Linh Lan trả lời không sao, dù vẫn còn khá hoảng loạn. Phó tướng của Quan Hoàng Bảy liền nói:
- Hiện một toán linh đã theo công tử Hiên đuổi theo Kim Ngân. Quan Hoàng Bảy thì có chút việc riêng đã đi từ trước. Hai vị có thể sang điện tiếp khách ngồi đợi một lát.
Sâm khẽ gật đầu cảm ơn vị phó tướng rồi dẫn Linh Lan đi sang phía điện bên này. Gương mặt Sâm nãy giờ đều hiện lên sự lo lắng, chốc chốc lại xiết chặt cây thương trong tay. Một nơi canh phòng nghiêm ngặt như trấn Bảo Hà, vậy mà bọn chúng vẫn ngang nhiên ra tay. Liệu chừng Tì Hưu cũng khó mà thoát được. Sâm nhìn Linh Lan, khó khăn lắm mới nặn ra được một nụ cười. Hai người ngồi một lúc, đột nhiên bên tai Linh Lan vang lên một khúc hát:
“Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt, ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha, thăm mẹ, cò về thăm anh”.
Linh Lan chưa bao giờ có mẹ, lớn lên như cây cỏ trên đồi. Tuy vậy, giọng hát này lại khiến cô thổn thức đến lạ. Giống như cô đã được nghe rất nhiều lần, giống như đã từng xoa dịu cô, ôm ấp cô bao nhiêu lần. Trước mắt Linh Lan bỗng hiện lên một ảo cảnh, một hang động rất đẹp và sáng sủa, một chiếc giường đá trải đầy cỏ thơm. Linh Lan được một đám lông mềm mịn nâng lên rồi hạ xuống. Cô cười lên ròn tan, cũng nghe thấy tiếng cười từ người đối diện nhưng lại không nhìn rõ mặt. Linh Lan ngơ ngác ngẩng lên hỏi Sâm:
- Anh có nghe thấy gì không?
Sâm chớp mắt nhìn Linh Lan, khẽ lắc đầu:
- Anh không nghe thấy.
- Thực sự không nghe thấy sao?
- Ừ, em sao thế?
Linh Lan ngẩn ra, như có một ngọn lửa thôi thúc, cô đi về phía cửa, lắng tai nghe. Tiếng hát nghe rất rõ, không thể nhầm lẫn được. Ảo cảnh lại lung linh hiện ra. Linh Lan bất giác đuổi theo tiếng hát. Ở phía sau Sâm vừa chạy theo vừa gọi nhưng dường như Linh Lan không nghe thấy, vẫn chạy như bay về phía vườn sau của phủ Quan Hoàng. Đến một cánh cửa thì tiếng hát biến mất, Sâm tóm được tay Linh Lan kéo lại, hớt hải hỏi:
- Em sao thế Linh Lan? Sao lại chạy ra đây.
Linh Lan quay lại, không biết từ lúc nào nước mắt đã rơi đầy mặt. Cô mếu máo nói, nước mắt vẫn rơi lã chã:
- Em nghe thấy tiếng hát, tiếng hát của một người rất thân thiết. Em nghĩ có thể là mẹ em anh Sâm ạ.
Sâm khẽ nhíu mày, kéo tay Linh Lan lại khuyên nhủ:
- Anh thấy sự việc không đơn giản như vậy đâu. Hay chúng ta trở về khách điếm trước đi, em đi theo anh.
Sâm quàng tay lên vai Linh Lan, dìu cô quay trở về nhưng Linh Lan vẫn quay đầu về phía sau, nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Thế rồi, khi đi đến bậc thềm, Linh Lan bất chợt vùng ra khỏi cánh tay Sâm, chạy thật nhanh mở cánh cửa màu nâu sậm ra. Một cơn lốc ào ra từ cánh cửa gỗ, nhưng Linh Lan không bị hất văng đi mà lại bị hút vào. Linh Lan lơ lửng giữa trời, Sâm trông thấy ngay lập tức túm lấy cánh tay Linh, vận khí giữ chặt để cả hai không bị bay đi, miệng liên tục gào lên:
- Nắm chắc tay anh.
Cả hai vật lộn trong cơn lốc, cát bụi bay mù mịt. Bất ngờ, một đụn cát hóa ra hình mũi dao, nhằm thẳng hướng trái tim của Sâm mà đâm tới. Sâm chỉ kịp né khỏi chỗ nguy hiểm nhưng bả vai vẫn bị đâm trúng, máu tươi chảy ra bị cơn lốc ngay lập tức hút vào. Linh Lan sợ hãi, mặt cắt không còn giọt máu, hô lên:
- Anh Sâm, cẩn thận.
Mũi dao lại lao đến, Sâm tung một chưởng ra đẩy lùi đi, nhưng vết thương vừa rồi quá lớn, toàn thân mất trọng tâm. Cả hai bị hút vào sau cánh cửa, ngã dúi dụi xuống một đụn cát, rồi lăn tròn xuống phía dưới. Máu của Sâm trải một đường dài. Mãi sau hai người mới dừng lại được. Linh Lan lao đến đỡ Sâm dậy, nhìn miệng vết thương mà đầu óc trống rỗng. Sâm cắn răng chịu đau, dùng linh khí tạo ra một trận pháp bảo vệ, ngăn gió cát đang ầm ầm táp vào cơ thể. Sau rồi mới xoa đầu Linh Lan nói:
- Anh vẫn chịu đựng được. Giờ chúng ta đi tìm một nơi tránh gió cát đã. Em đỡ anh nhé.
Linh Lan gật đầu lia lịa, ghé vai xuống dưới cánh tay Sâm, đỡ cậu dậy. Hai người bước thấp bước cao đi giữa trời đất mù mịt, tiếng gió rít lên từng cơn như tiếng ai oán chết chóc, đất đá bị gió cuốn đập vào lớp trận pháp nghe đùng đùng, xung quanh chỉ một màu tăm tối, chẳng biết nơi đây là nơi nào. Linh Lan dùng bùa hỏa luân mình học được, thắp lên một ngọn lửa vừa sưởi ấm vừa chiếu sáng đường đi.
Cùng lúc ấy Diệp Đằng đuổi theo Tì Hưu đến bờ suối, thấy từng dòng màu đỏ đang chảy về phía hạ lưu. Xác Tì Hưu nằm vắt lên một hòn đá, một mũi tên xuyên qua trái tim, đâm cả ra phía sau lưng. Nếu là một mũi tên bình thường, chưa chắc Tì Hưu đã chết nhanh như vậy. Diệp Đằng bẻ lấy đuôi mũi tên rồi giao xác Tì Hưu cho binh lính Bảo Hà. Lúc về đến điện phủ đột nhiên lại không thấy Linh Lan và Sâm đâu. Diệp Đằng sử dụng thông linh nhưng không được, hỏi mấy binh lính trong phủ nhưng họ đều nói không biết. Diệp Đằng có dự cảm không lành. Lập tức chạy ra khỏi phủ Quan Hoàng, đang định chạy về khách điếm tìm xem thì lại thấy một bóng người lướt đi rất nhanh trên đường. Bóng dáng ấy rất quen thuộc với Diệp Đằng. Suy nghĩ một khắc, Diệp Đằng liền bám theo. Người đó đi rất nhanh, cảm giác như mặt đất dưới chân đang di chuyển, vòng qua mấy con phố, ra khỏi cổng thành rồi đi về phía mấy dãy núi phía tây trấn Bảo Hà. Diệp Đằng chủ động đi chậm lại, cách xa thêm một chút, quả nhiên thấy trong rừng lần lượt xuất hiện rất nhiều quân lính mặc đồ đen, cúng kính cúi chào rồi đi theo phía sau lưng. Nhìn cách ăn mặc lại khá giống đám người ban nãy. Diệp Đằng nhẹ nhàng phi thân lên ngọn cây, yên lặng bám theo. Họ đi đến cửa một thung lũng. Từ khoảng cách rất xa, Diệp Đằng đã cảm nhận được oán khí nồng nặc. Nơi này xem ra có một trận pháp rất lớn. Từ sau tán cây nhìn ra, chỉ thấy bóng lưng của người kia im lìm bất động, vạt áo cũng không hề lung lay, dường như đang đứng chờ ai đó. Quả nhiên mộ lát sau, một toán quân lính lục tục kéo tới, người đi đầu chính là Quan Hoàng Bảy. Quan Hoàng vừa tới, tập tức quỳ một chân xuống đất, năm tay bái chào theo cung cách nhà binh:
- Kính chào Địa Mẫu.
Người kia hừ lạnh, quay người lại nhìn về phía Quan Hoàng Bảy. Gương mặt ấy chính là của Tử Y cô nương. Diệp Đằng cũng biết mình không thể nhầm được nên hôm đó mới bảo Sâm tránh ngay đi. Địa Mẫu mà nổi sát tâm thì chẳng ai có thể trốn được.
Địa Mẫu rủ mắt nhìn xuống Quan Hoàng Bảy, gương mặt lạnh tanh không một gợn cảm xúc, chầm chậm nói:
- Việc quản lý oan hồn dã quỷ, Ngọc Hoàng Đại Đế vốn là giao cho Địa Phủ ta toàn quyền xử lý. Nay lại thấy ngay trấn Bảo Hà uy nghi, quy củ có một trận pháp oán khí nồng nặc, bắt giết người vô tội để ăn thịt, chẳng hay Quan Hoàng Bảy có điều gì muốn giải thích chăng?
Mặt Quan Hoàng Bảy tái dần đi, hai hàm răng nghiến lại hằn rõ xương quai xanh. Ngài ấy vẫn quỳ dưới đất, lặng im không nói. Địa Mẫu biết chuyện này Quan Hoàng không muốn người khác biết bèn cho quân lính lui đi. Một lát sau chỉ còn lại Quan Hoàng và Địa Mẫu. Địa Mẫu đỡ Quan Hoàng đứng dậy, hai người cùng nhìn về phía trận pháp. Lần này Quan Hoàng chủ động lên tiếng:
- Địa Mẫu dẫn quân lính Địa Phủ đến, chắc chắn là điều tra kỹ càng rồi. Oán trận này đúng là do ta dùng vàng bạc của trấn Bảo Hà nuôi dưỡng và che giấu bấy lâu nay. Ta biết việc này là vi phạm quy định của Thiên Phủ, nhưng ta cũng bảo vệ nó vô cùng kỹ càng, tránh tối đa gây hại cho người vô tội.
- Tránh tối đa? – Giọng Địa Mẫu lạnh lẽo – Vậy là vẫn có người bị oán trận này giết hại đúng không? Hơn nữa nó lại càng ngày càng mạnh, vàng bạc của trấn Bảo Hà liệu có đủ nuôi oán trận này thêm mười năm nữa không?
- Ta vẫn đang cố gắng kiếm vàng bạc châu báu để nuôi nó. Địa Mẫu hãy cho ta chút thời gian. Nếu Địa Mẫu đồng ý, ta nguyện sẽ ủng hộ người trong mọi việc.
Nghe ý tứ của Quan Hoàng Bảy thì là đang nhắc đến cuộc tranh đoạt vị trí mà Thiên Phủ giao lại trong ba năm. Địa Mẫu có lẽ cũng vì điều ấy mà cất công tới tận nơi. Chẳng hiểu sao lại không được vui vẻ như vậy. Địa Mẫu vẫn giữ thái độ khó chịu xen lẫn sự trách móc:
- Tiếc là lời đề nghị của Quan Hoàng đến quá muộn. Trận pháp của ngài đã nuốt chửng hai đồ đệ của Nhạc Phủ. Nếu để 2 tên ấy chết trong trận pháp, thì cả ta và ngài đều không gánh được trách nhiệm. Hiện tại chỉ còn cách duy nhất là phá hủy oán trận đi này thôi.
Diệp Đằng từ đằng xa nghe vậy mà rúng động. Vậy là Sâm và Linh Lan bị hút vào trong oán trận này thật rồi. Với oán khí nặng nề như vậy, thần tiên cũng chỉ sống được một ngày, huống chi Sâm với Linh Lan mới tu luyện đến bán tiên mà thôi.
Diệp Đằng lập tức lao ra, đứng trước mặt Địa Mẫu và Quan Hoàng Bảy, lớp dịch dung cũng đã bỏ đi, để lộ ra nguyên hình và tiên khí lồng lộng. Diệp Đằng vội vã chắp tay rồi mau chóng thưa:
- Xin tạ lỗi với Quan Hoàng và Địa Mẫu, tại hạ là Diệp Đằng, đồ đệ thứ mười của Mẫu Thượng Ngàn. Ban nãy tại hạ nấp ở đằng sau đã nghe thấy câu chuyện của các ngài. Việc này liên quan đến an nguy của đồ đệ Nhạc Phủ, mong hai vị hãy giúp tại hạ đánh tan trận pháp để mong chóng cứu người.
Địa Mẫu nhìn thấy Diệp Đằng đôi mắt đột nhiên rung rung, ánh mắt thăm thẳm, khóe môi lại. Lần đầu tiên gương mặt của ngài ấy không còn vẻ lạnh nhạt dửng dưng và có một biểu hiện rõ ràng. Diệp Đằng biết nhưng đang lúc nước sôi lửa bỏng thật sự không tiện để nói chuyện khác. Phía bên này Quan Hoàng Bảy sắc mặt xám như tro, đôi lông mày nhíu chặt, hàm bạnh ra. Diệp Đằng đương cảm thấy khó hiểu, thì đột nhiên Quan Hoàng Bảy quát lên:
- Các ngươi muốn phá trận thì trước tiên bước qua xác ta đã.
Diệp Đằng bị một luồng chưởng lực ép cho lùi lại. Trên tay Quan Hoàng Bảy đã hiện ra một thanh đại đao, trực tiếp bổ xuống. Địa Mẫu ngay lập tức túm lấy cánh tay kéo Diệp Đằng lùi lại, miệng khẽ huýt sáo. Một con vật tròn lẳn như con giun lớn nhưng đen tuyển một màu từ lòng đất chui lên, quấn chặt lấy Quan Hoàng Bảy. Diệp Đằng tranh thủ lúc ấy, ngồi xuống xem xét trận pháp. Đây có lẽ là chiến trường cũ, nơi Quan Hoàng Bảy chiến đấu, oán khí nồng nặc này đều từ quân lính chết trận mà ra. Diệp Đằng thật không hiểu, tại sao Quan Hoàng Bảy lại nhất quyết giữ lại trận pháp này.
Cùng lúc ấy, Quan Hoàng Bảy gồng tay chống về phía trước, đại đạo thoát ra được, ngay lập tức chém liên tiếp lên người con vật kia. Con giun đau đớn buông Quan Hoàng ra, nhân cơ hội đó, Quan Hoàng rút bột kiếm bên hông chặt đứt đầu con vật. Địa Mẫu thu con vật lại, nheo mắt nói:
- Ngươi thực sự muốn chết cũng phải giữ lại trận pháp này sao?
- Phải.
Quan Hoàng Bảy trả lời như chém đinh chặt sắt, thân hình cao lớn đứng trấn trước trận pháp, không để Địa Mẫu xông lên dù chỉ một bước. Địa Mẫu cũng không phải người bị dễ bị lung lay bởi khí thế của người khác, lập tức vung tay kết ấn, thêm một đàn giun lớn khác lại từ dưới đất chui lên, cái đầu lúc lắc quất liên tiếp về phía Quan Hoàng Bảy. Quan Hoàng Bảy tay phải vung đao, tay trái đánh chưởng, dùng tốc độ né tránh đám hung thú, cùng lúc chém vào dưới đầu con vật 3 tấc, đó chính là điểm yếu. Mặc dù cũng dính đòn khá nhiều nhưng cũng giết được bảy tám con. Địa Mẫu thấy đám hung thú không làm gì được Quan Hoàng thì trực tiếp ra tay. Ngài dùng linh khí vẽ nên một trận pháp vàng rực màu đồng thau, ngón tay vừa đến điểm cuối, giông gió lập tức nổi lên, cuốn theo bụi đất và lá cây thành một cơn lốc vây lấy Quan Hoàng Bảy. Quan Hoàng Bảy hạ tấn để cơn lốc không cuốn cơ thể đi, cùng lúc ấy vung đao chém một luồng sát khí bay thẳng về phía Địa Mẫu. Địa Mẫu tung người về sau lộn một vòng tránh đi, dùng mũi chân đáp xuống một cành cây, lại đưa tay lên miệng niệm chú. Một loạt pháo đất hiện ra, liên tục chụp xuống đầu Quan Hoàng Bảy, những tiếng bụp bụp vang trời dậy đất. Quan Hoàng vừa tránh vừa dùng đao chém, cuối cùng vẫn bị một pháo đất chụp được. Địa Mẫu ra tăng chú niệm nhằm bắt giữ Quan Hoàng Bảy nhưng Quan Hoàng Bảy lại phá tan pháo đất bay lên, vung một đường đao hình trăng khuyết về phía Địa Mẫu, áo choàng vậy mà bị luồng khí của Quan Hoàng Bảy làm cho rách một đường. Địa Mẫu vẫn không hề nao núng, lại gọi giông lốc kéo đến, cuốn theo từng lớp từng lớp đá to, tạo thành một bức tường cao đến nghìn trượng ép chặt lấy Quan Hoàng Bảy. Quan Hoàng Bảy đã bị thương, lại bị đất đá văng phải từ khắp mọi hướng, thật sự không chịu đựng nổi, uỳnh một cái khuỵu một chân xuống đất, phải dùng đến đại đao để chống, máu từ miệng rỉ ra một đường dài, quần áo trên người cũng không còn nguyên vẹn. Đúng lúc ấy Diệp Đằng chạy tới, chắp tay nói:
- Xin Địa Mẫu dừng tay một chút, tôi có điều muốn hỏi Quan Hoàng.
Địa Mẫu chớp mắt một cái, giông gió liên dịu đi nhưng vẫn giam Quan Hoàng Bảy ở giữa. Diệp Đằng chống đầu gối xuống đất, nhìn thẳng vào mắt Quan Hoàng hỏi:
- Thời gian đã gấp lắm rồi, hai đệ tử của tại hạ sợ rằng không chịu đựng được lâu nữa. Nếu Quan Hoàng có gì khúc mắc, xin cứ nói ra, tại hạ sẽ dốc sức thực hiện.
Quan Hoàng Bảy nghiến hai hàm răng, ngăn một cơn thổ huyết xộc lên, khó nhọc đáp:
- Ngươi không làm được đâu, ta đã thử rất nhiều cách, cũng từng xông vào trận pháp nhưng đều không làm được.
Diệp Đằng vẫn giữ ánh mắt kiên nghị, nhìn thẳng nói:
- Quan Hoàng hãy cho tại hạ một cơ hội. Người trong đó, cũng quan trọng với tạ hạ như gia đình của ngài vậy. Tại hạ không thể để mất họ, dù cho có phải chết.
Quan Hoàng nước mắt lưng tròng, lúc này mới thì thào kể lại. Thì ra năm đó khi đánh thành Bảo Hà, quân địch đã cho người bắt giữ vợ con của Quan Hoàng Bảy làm con tin. Vì sợ Quan Hoàng khó xử, vợ và con gái đã tự vẫn trước khi Quan Hoàng tấn công vào thành. Xác quân thù chất thành một ngọn núi, đều chôn chung tại thung lũng này nhưng Quan Hoàng tìm mấy cũng không tìm được vợ con. Vì oán khí quá nhiều, Quan Hoàng cho lập đàn pháp, tiễn các vong hồn này về Địa Phủ chịu tội. Đêm hôm ấy, ngài nằm mơ thấy một toán lính của kẻ thù đang dùng ngựa kéo lê một cơ thể nhỏ bé dưới đất, chúng vừa chạy vừa cười lên hả hê: “Ngươi tưởng chết là hết à? Ta sẽ giam cầm linh hồn vợ con ngươi, ngày ngày hành hạ chúng. Nếu ngươi không dùng vàng bạc cúng rường, chúng ta sẽ hành hạ tiếp. Nếu ngươi dám diệt trừ, chúng ta sẽ kéo vợ con ngươi cùng xuống địa ngục. Hahaha”. Tỉnh dậy, Quan Hoàng Bảy lập tức nhận được tin có biến tại thung lũng xác giặc, một oán trận đã hình thành, hơn nữa oán trận này còn rất mạnh. Quan Hoàng xông tới, đã định sẽ báo lên Thiên Phủ rồi cùng các tiên quan khác diệt trừ trận pháp nhưng nhớ lại giấc mơ đêm qua, ngài ấy lại do dự. Rồi hàng đêm, Quan Hoàng đều mơ thấy giấy mơ ấy. Vì quá thương vợ và con gái, ngài ấy cuối cùng đã dùng vàng bạc cúng rường, chỉ mong sao có ngày tìm được cách cứu linh hồn vợ và con gái ra. Nhưng đã mấy trăm năm, đều là vô phương hóa giải, số vàng bạc cung cấp cho trận pháp lại mỗi lúc một nhiều, chính vì thế Quan Hoàng mới cần đến những tên đốn mạt như Tì Hưu để kiếm tiền cho mình.
Diệp Đằng nghe xong câu chuyện, cảm thấy thực sự thương cảm với Quan Hoàng Bảy. Cậu quay lại nói với Địa Mẫu:
- Xin ngài thả Quan Hoàng Bảy ra trước đã.
Địa Mẫu đáp xuống đất, phất tay áo, lập tức trận pháp được hóa giải. Quan Hoàng Bảy gục xuống, một tay đỡ ngực, máu từ khắp cơ thể thấm ướt quần áo bên ngoài. Diệp Đằng vội đỡ lấy, dùng linh lực phong ấn mạch máu của Quan Hoàng. Quan Hoàng nắm lấy cánh tay Diệp Đằng siết chặt, dù không nói được nhưng có lẽ là đang cầu xin Diệp Đằng cứu lấy vợ và con gái. Diệp Đằng quay về phía Địa Mẫu, kính cẩn thưa:
- Phiền Địa Mẫu chăm sóc Quan Hoàng Bảy cũng như hộ pháp giúp tôi khi mở cửa trận, tôi sẽ trực tiếp vào trận để cứu đệ tử, cùng lúc sẽ tìm kiếm vợ và con gái ngài ấy.
Địa Mẫu nghe vậy lập tức tiến lại, đưa tay định nắm lấy cánh tay Diệp Đằng nhưng cậu lùi lại, Địa Mẫu buông cánh tay xuống, lo lắng nhìn Diệp Đằng:
- Oán trận này vô cùng nguy hiểm, với linh lực của cậu chưa chắc đã cứu được người, hơn nữa còn nguy hiểm đến tính mạng, cách tốt nhất vẫn là phá hủy pháp trận này từ bên ngoài.
Diệp Đằng nhìn vào trận pháp, giọng nói trầm thấp:
- Tôi đã xem qua rồi, nếu phá hủy trận pháp này, người bên trong tất sẽ chịu hậu quả, dù cứu được cũng sẽ bị thương rất nặng. Đồ đệ ấy của tôi không có linh lực hộ thể, sợ rằng không chịu đựng nổi.
Địa Mẫu khẽ cau mày, đôi mắt nhuốm một màu tím biếc:
- Lần đầu tiên ta thấy cậu lo lắng như vậy. Đệ tử đó là người rất quan trọng với cậu sao?
Diệp Đằng không trả lời, chỉ nhìn Địa Mẫu bằng đôi mắt kiên định. Cậu chắp tay cáo từ rồi đáp đất phi thân vào trận pháp. Từ phía sau, Địa Mẫu hộ pháp cho Diệp Đằng. Trận pháp không phải lúc nào cũng mở cho người khác vào, vì thế cần có người mở đường.
Bình luận
Chưa có bình luận