Cả dãy hành lang trở lại cảnh sắc lặng lẽ cũ, chỉ còn mưa lâm thâm gõ nhịp lên mái ngói và tiếng nhẩm bài rì rầm của đám học trò. Thời gian trôi qua chầm chậm như lũ nước lặng ngắt dưới chân đê mùa cạn, không khí chỉ xáo động khi các giám thị và hội đồng chấm thi bước tới. Bọn học trò chẳng đợi ai hô hào, chúng tự động xếp thành một hàng, áo quần tề chỉnh, mặt mũi nghiêm túc. Thật giống cảnh khoa cử thời xưa, khi đám sĩ tử áo the khăn xếp đứng dưới bóng cây để chờ vào trường thi.
Tên của Lưu Nguyên nằm chừng giữa bản danh sách, vậy nên cũng chẳng phải chờ lâu. Nguyên hồi hộp bước vào với một cây bút và đôi tờ giấy trắng. Quý Ly đứng ngoài nhìn theo bóng lưng cậu, hiếm khi nào lòng dạ y bồn chồn. Y nói khẽ theo:
Ấy là một thỏa thuận từ trước giữa hai người: Kỳ này, Nguyên sẽ phải dự thi bằng chính sức của mình. Và để tránh cho cậu yếu lòng, Quý Ly buộc phải ở ngoài, thế là không có gian lận, không có bóng ma nào thì thầm bên tai nữa. “Em sẽ dùng chính sức mình mà xoay chuyển càn khôn.” Nguyên nói bằng cái điệu cổ văn lõm bõm học mót từ Quý Ly.
Cánh cửa phòng khép lại, mặt kính tối sầm như đáy giếng. Quý Ly ghé mắt nhìn vào, chỉ thấy lờ mờ dáng Nguyên nơi hàng ba dãy giữa, đầu hơi cúi, dáng ngồi thẳng thớm như học trò xưa.
Quy chế thi đã được Nhà trường thông báo từ hôm qua: Mỗi học sinh sẽ có hai mươi phút để suy nghĩ và mười phút trình bày trong hội đồng khảo hạch. Trước khi bắt đầu thi, các học sinh sẽ được bốc đề và được chia vào các hội đồng chấm thi khác nhau. Cứ thế, học sinh nào cùng đề thì được đưa vào cùng một hội đồng.
Chưa bao giờ kể từ khi làm quan Quý Ly lại đi lo lắng về một cuộc thi cỏn con. Trong đầu y không ngừng tái hiện lại hình ảnh cậu thiếu niên chăm chỉ ôn luyện và lấy đó làm an ủi mình. Suốt những tuần qua, Nguyên – thằng bé ấy, đã không còn là một kẻ học trò hời hợt mà thoát xác trở thành một người cầu học chân chính. Cậu học không khác gì một sĩ tử khoa bảng lấy sự hiểu làm gốc, nghiêm túc và tự chủ. Tuy vậy, do thời gian học tập ngắn mà lượng kiến thức thì nhiều, cuối cùng Nguyên cũng quyết định sẽ nghe theo lời khuyên của cô Quỳnh, tức chỉ chuyên tâm vào một triều đại, học cho sâu rồi lấy đó làm nền mà vận dụng muôn đề. Nguyên bèn lựa triều Trần, cũng là triều đại của chính Quý Ly để dốc lòng tìm hiểu. Khi ấy Nguyên đã nói gì, Quý Ly ngẫm. À, Nguyên nói: “Có sẵn một ông ma làm quan nhà Trần ở đây, không tận dụng thì phí của giời.”
Hằng ngày, Nguyên dành nhiều thời gian để đọc sách trong thư viện, qua cái sự ấy, Quý Ly mới biết thằng bé này rất có chủ kiến và hay thích phản biện. Đặc biệt, Nguyên không ưa cái lối học vẹt của những người học Sử bình thường, tức học để thuộc chứ chẳng để hiểu, vốn là điều làm cho bao Nho sinh ngày trước thành kẻ giỏi làm văn mà vụng trị dân. Cậu chàng hay hỏi và hay bình phẩm. Một đôi khi Quý Ly chợt phát hiện những điều tư tưởng ấy có nét tương đồng với hoài bão của mình. Thế là y trộm nghĩ liệu chăng có những thứ y có thể thổ lộ ra với cậu.
Nhiều hôm học đến sáng, Nguyên thiếp đi giữa chừng, đầu gục xuống trang vở chi chít chữ. Quý Ly chỉ lặng lẽ ngồi nhìn, lòng như có tiếng tất lật ngân lên giữa đêm sâu. Trời chưa sáng, mây còn bạc đầu phía Đông, Quý Ly chợt rơi vào một niềm tư lự sâu sắc: Ở Việt Nam, xe cộ nối đuôi nhau chạy êm như nước, thân xe sáng bóng tựa gương đồng. Người ngồi bên trong mưa chẳng ướt đầu, nắng chẳng táp mặt. Quý Ly nhìn mà tưởng như đang mộng. Ngày trước, quan lớn đi kiệu còn xóc nảy, dân thì dãi dầu chân đất. Ở Việt Nam, đâu đâu cũng là nhà cao như núi thiếc, mặt tường bằng kính trong suốt, soi được cả trời mây. Cửa tự mở, máy móc tự chạy, đi mấy tầng lầu mà chẳng tốn sức. Nhớ lại hoàng cung xưa huy động cả nghìn thợ, dân chúng lầm than đói khổ mà cũng chỉ mười voi không được bát nước xáo. Ở Việt Nam, hai bên đường dựng đầy những cây cột sắt đen nhánh, đầu cột phát sáng. Thứ ánh sáng trắng rực, xuyên qua đêm đen mịt mùng. Khi ấy, Quý Ly chưa hiểu đèn “điện” là gì, chỉ thấy nguồn sáng nọ làm lu mờ nhật nguyệt, sao mà rực rỡ. Nhất là khi đi qua công viên, Ly trông thấy giữa vườn không đặt tượng Phật hay miếu thờ mà rải rác toàn những khung sắt, tay đòn, bánh lăn, thứ gì cũng nặng trịch, chắc chắn, xếp ngay ngắn như trận đồ. Hỏi ra mới biết đó là “dụng cụ thể dục”, ai đi ngang cũng có thể tự do sử dụng. Y trố mắt nhìn mà ngẩn người. Sắt nhiều thế sao chẳng mang mà đúc gươm giáo? Để thế này không sợ bị trộm đem nấu chảy ư? Thời Đại Việt, chỉ một khối sắt to bằng bàn tay cũng đủ quý như vàng, phải dùng vào binh khí, hay ít ra cũng làm đai ngựa, móc cương. Còn đây, người ta đem sắt đúc thành khung tròn, xà ngang, đặt giữa đất, mặc gió mưa táp vào, không chút dè sẻn. Quý Ly bỗng trộm nghĩ: phải chăng thời này thiên hạ đã yên ổn đến độ chẳng còn ai nghĩ đến việc binh đao? Sắt không còn là vật của quân lính, mà trở thành thứ để dân thường dùng rèn luyện sức khoẻ? Một quốc gia có thể để sắt thép giữa phố, ấy là một quốc gia không còn loạn lạc. Suy nghĩ ấy bỗng vụt qua đầu y như tiếng sấm. Phải chăng đây là xã hội mà lòng y từng hướng tới? Một quốc gia ấm no nơi kẻ sĩ được trọng, dân được học thành tài. Nhớ lại Đại Việt xưa, nhà tranh dột nát, hạn hán lũ lụt liên miên, sâu rầy phá hoại mùa màng, người dân thắt ngặt, mù chữ, đinh nam phải nộp thuế dung. Mà nay, sách bày đầy trên kệ, chữ nghĩa sáng lòa, trẻ con biết đọc khi vừa tròn ba tuổi.
Bình luận
Chưa có bình luận