Buổi ấy vào tiết Xuân Phân, trời giăng mưa bụi, không khí bớt đi cái rét mướt của mùa Xuân và đan cài cơn nóng hầm hập của mùa Hạ, thế là trời đâm ẩm ướt và người ta cứ thấy nhơm nhớp suốt. Hiếm khi nào Quý Ly lại cảm thông cho những lời than vãn vào sáng sớm của Nguyên, “ôi nồm!”. Chẳng là vào sáng nay, khi đặt tay lên vai Nguyên như mọi hôm, y đã được chứng thực về lời than ấy.
Để giải thích cho cái cụm “như mọi hôm”, sự là từ khi khám phá ra một điều thú vị: mỗi lần chạm vào Nguyên, y sẽ được cảm nhận những điều mà Nguyên đang cảm nhận thì Quý Ly hóa ra lại thấy thú. Vì lẽ ấy, y thường xuyên dùng Nguyên như một cánh cửa để nếm đủ của ngon vật lạ, hoặc chăng, hưởng gió mát từ chiếc quạt sắt – một trong những thần vật vĩ đại chạy bằng “điện” mà y được trải nghiệm. Nhờ vậy, tự nhiên Quý Ly thấy mình cũng đang sống thong dong trong một thời đại lạ lùng.
– Mọi hôm anh cứ như cái cột thu lôi đòi hít khí thiêng trời đất, sao nay anh đứng xa em thế? – Nguyên cúi xuống, lúi húi xắn hai ống quần ướt rượt. Liếc thấy đôi hài khô ráo của Quý Ly, Nguyên ghen tức lắm.
– Nay nồm, ta xin kiếu vậy.
Dù lời từ chối của bạn ma rất chi lễ độ, nhưng cung cách ấy chỉ tổ làm Nguyên thấy cay cú hơn. Cậu nhào sang toan túm tay Quý Ly, song bao năm rèn võ của y nào phải chuyện đùa. Mặc thằng bé bày cách nào, y cũng tránh được tất.
– Trơn như chạch! – Nguyên tức tối lắm. Cậu chàng thở hồng hộc, chỉ tay mắng Quý Ly.
Quý Ly xua:
– Thôi thôi, giờ hãy còn sớm, em mau tranh thủ ôn luyện chứ chớ có chủ quan buông thả.
Nguyên lụng bụng:
– Em thuộc làu như cháo rồi, ôn làm gì nữa!
Dầu nói thế nhưng tay Nguyên đã mò vào trong cặp, lôi ra một cuốn vở viết chi chít những dòng chữ xẹo xọ. Quý Ly đứng bên trông vào mà không khỏi chau mày tặc lưỡi. Theo ý của y, Nguyên là đứa dĩnh ngộ, nhưng chữ viết thì ẩu tả quá. Y không biết chữ thời nay, song nếu so với chữ trong sách, tức là so với một văn bản mẫu mực thì chữ cậu không ra hình ra dạng gì sất: viết ngoáy, ăn bớt, leo dòng, rối rắm vô tướng trông cứ như đàn kiến bò nhặng. Đã vài lần Quý Ly góp ý khéo léo, nhưng Nguyên chỉ được lúc đầu, càng viết chữ cậu càng to và nằm rạp xuống tận dòng kẻ. Thế là y đành thôi, chỉ lắc đầu lẩm bẩm “nét chữ nết người”.
Nguyên nghe vậy thì không vui lòng:
– Anh đừng có mượn chữ để xọ sang chê người, em đâu phải đứa xấu tính!
Quý Ly cười:
– Vậy hóa ra em cũng biết chữ mình xấu ư?
Nguyên bĩu môi:
– Anh tưởng em không biết anh chê em chắc?
– Ta quả có chê chữ em, ấy là sự thực. Nhưng ta chưa từng có lòng nào chê em.
– Anh vừa bảo nét chữ nết người còn gì!
Thấy Nguyên cáu, Quý Ly càng cười giòn:
– Vậy là em chưa tỏ hết ý của câu ấy rồi.
Có vẻ nom thằng bé ngẩn ngơ quá, Ly tiếp:
– Các cụ nói nét chữ nết người, tức từ nét chữ, ta nhìn ra được phần nào tính người. Chữ viết hối hả, nét cứng cỏi lại nghiêng về bên phải như chữ của em thường thuộc về kẻ có chí tiến thủ, tính cách sốt sắng, lạc quan, ít khi chịu bó gối mệnh trời.
Nghe vậy, Nguyên mím môi cười mủm mỉm. Biết cậu thích, Quý Ly lại tiếp:
– Tuy em viết ngoáy nhưng đậm đà và có nhịp, chứng tỏ thân thể khoẻ khoắn, nội tâm giàu nghị lực. Xưa kia nhiều bậc vĩ nhân cũng vậy, chữ chưa cần đẹp mà cốt chân thật, khí phách.
Bấy giờ Nguyên không giữ được mình nữa, cậu cười ngoác miệng, phổng mũi:
– Anh nói thế nghe còn tạm được.
Vậy là câu chuyện kết thúc ở đấy. Tuy nhiên, có một điều mà Quý Ly đã giữ không nói cho Nguyên hay. Ấy là chữ của cậu thường có các nét uốn vòng rộng, cao, đơn cử như cái đuôi chữ m, n vểnh lên tựa chữ u. Người có chữ như vậy thường là bậc nhân hậu, tâm tính khoan hòa, lại giàu lòng trắc ẩn.
Chẳng thế mà mỗi lần đàm đạo tới cảnh đời khổ lụy của bách tính lê dân xưa, Nguyên cứ hay tỏ ra phẫn uất. Ban đầu Quý Ly còn lấy làm khó hiểu, y không rõ sự phẫn uất ấy của Nguyên từ đâu mà đến. Tuy vậy, dần dà ở lâu lại chốn hiện đại, y mới vỡ lẽ rằng: chính cái xã hội này, người ta không thông thạo thư lễ văn chương nhưng lại cho con người được một điều quý báu: ấy là quyền được sống, được tự do và được có phẩm giá. Điều đó đã khiến Nguyên nhìn những thứ bình thường trong mắt Quý Ly trở thành bất bình thường.
Buổi sáng cuối tuần ấy, trời đất như người mộng du chưa tỉnh, ánh dương lười biếng núp sau vầng mây bạc xám ngoét, gió đầu ngày chập chờn tựa hơi thở một cụ đồ già sau buổi bình văn. Quý Ly lững thững đi bên cạnh Nguyên, y bước thong thả như ông quan về hưu đương dạo chùa. Vì là Chủ Nhật nên sân trường vắng lặng quá, chỉ có tiếng guốc ai vang xa xa và cái bóng của Nguyên đơn độc in nghiêng xuống nền gạch két bẩn.
Tới trước Hội trường, nơi diễn ra vòng thi thứ hai của cuộc thi Trang Vàng Lịch Sử, Nguyên và Quý Ly thấy ngay một đám học trò đang đứng tụ tập, có đứa cắm cúi vào sách vở, cũng có đứa hăng say chuyện phiếm. Nhác thấy Nguyên, một đứa trong số ấy nom hậm hực ra mặt. Nó mỉa:
– Chỉ giỏi làm cái vẻ chăm chỉ.
Quý Ly nhận ra cậu này ngay, cái cậu mà y đánh giá là hạng người bới bèo ra bọ, nhặt mưa làm bão, chính cái cậu từng rắp tâm gieo tiếng xấu cho Nguyên. Y nhíu mày, định khuyên giải Nguyên chớ để tâm mà trúng kế khích tướng làm mất lòng sĩ khí, ấy nhưng y lại thấy cậu ngồi thụp xuống gần cửa, khịt mũi:
– Ra vẻ mà điểm cao được như tao thì khối đứa thèm. – Dứt lời, cậu hất cằm với Quý Ly. – Nhỉ?
Thằng Lợi (chính cái cậu ưa móc mỉa kia) gân cổ lên vặc:
– Ơ thằng chó này!
Nhưng mới xắn tay áo được nửa chừng thì cậu chàng bỗng bị con nhỏ bên cạnh túm tóc lôi lại:
– Thôi! Hôm trước cô mới bảo mày cái gì?
Thấy Lợi trợn mắt lườm nguýt, con nhỏ gắt, cái giọng the thé mà có uy lạ thường:
– Tao mách cô bây giờ.
Vậy mới yên chuyện.
Bình luận
Chưa có bình luận