Đã ba đêm tròn Nguyên tự giam mình trong cái ngục thất mang tên “bàn học”. Dưới ánh đèn hiu hắt, và thậm chí còn hiu hắt hơn trong đêm khiến người ta thấy ôi sao mà buồn ngủ, Nguyên cứ có cảm giác hình như đã rất lâu rồi thằng bé không được hưởng cái thú xa xỉ của một giấc ngủ đầy tám tiếng. Buổi sớm cậu đến lớp với đôi mắt kèm nhèm, trưa lùa vội bát cơm rồi lại vùi mặt vào sách Sử. Đến cả lúc tắm rửa hay đi vệ sinh, Nguyên cũng không quên nhẩm cho thuộc bài.
Thực ra trong thâm tâm, Nguyên đâu có muốn thế. Thằng bé đã mơ đến những viễn cảnh rất khác: một chiều Hè đỏ quạch bên tiệm nét, nơi tiếng gõ phím rào rạo như giông và ánh màn hình xanh lét khiến lòng người mê mẩn; một buổi tối lim dim xem phim Hồng Kông, nơi mấy ông chú đầu gấu phóng xe lạng lách như múa kiếm trên đường phố đẫm sương; hay chí ít, một giấc ngủ đã đời không bị ai gọi dậy, tức là ngủ tới tận khi gà trưa gáy gióng giả.
Chị Tú – mẹ Nguyên – cũng phải lấy làm lạ trước cái sự chăm chỉ của thằng con. Đúng vào cái giờ dơi bay từng đàn, chị bưng lên tầng một đĩa trái cây thịnh soạn: vài miếng táo, dăm múi cam, một nhành nho đầy đặn. Chị dừng chân ngoài cửa buồng, nơi thằng con chị đã ban hành “hiệp ước gõ cửa”. Qua cái cửa cũ kỹ ấy, chị Tú nghe thấy tiếng con trai lẩm nhẩm như tụng kinh, mà tuồng như Nguyên lại còn đang thảo luận sôi nổi với ai đó. Chị lắc đầu, thôi vậy, miễn con nó chịu học cho giỏi giang là được. Nghĩ thế, lần đầu tiên kể từ khi hiệp ước “gõ cửa” ra đời, chị thực sự gõ cửa.
Lát sau mới có tiếng vọng ra, giọng thằng Nguyên nghe sượng sùng, ngỡ ngàng lắm:
Cửa mở. Ánh đèn phản chiếu gương mặt chị dịu dàng như tranh lụa. Chị đặt đĩa hoa quả xuống, cười:
Ánh mắt chị rơi xuống bàn học: những cuốn sách Sử dày cộp, những quyển vở viết chữ chằng chịt. Chị ngạc nhiên lắm, nhưng chưa kịp hỏi, Nguyên – con chị, đã hớn hở vồ lấy đĩa trái cây:
Từ góc phòng, người bạn ma buông một cái liếc đầy ngụ ý. Y ngồi đó như bóng tùng cổ rủ rỉ giữa đêm, giọng trầm mà nghe rõ từng chữ:
– Học xong mục chính sách Kinh tế – Xã hội thời Lý đã rồi nghỉ.
Nguyên giả vờ điếc, cậu nhón miếng táo, thảy vào miệng rồi nhai rồm rộp rất chi ngon lành. Thấy thế, Quý Ly bèn thò tay véo tai cậu, khiến cậu rú lên oai oái:
– Á! Đau! Đau mà! Em học! Em học tiếp ngay! Mẹ về phòng đi, đừng lo, con học thật đấy!
Chị Tú ngờ vực nhìn thằng con, song chị đành quy tất cả những điều bất thường ấy cho cái “tuổi mới lớn”. Chị lắc đầu, lòng vừa thương vừa bất đắc dĩ. Rồi chị đi ra ngoài, tay lặng lẽ khép cửa:
– Ta nói rồi. Vô dật, nãi dật, em có hiểu điều ấy không? Hãy tránh xa mọi trò hưởng lạc thì tự khắc niềm vui sẽ đến. Cô giáo em đã nói chỉ hai mươi vị trí đầu bảng mới được đi Bắc Ninh. Vòng đầu đã có gần trăm người dự, em mà cứ ăn như rồng cuốn học như mèo mửa thì đến bao giờ mới đặt chân được tới đất thiêng? Đến bao giờ mới thoát khỏi cảnh ràng buộc?
– Anh chỉ được cái triết lý. Đã tránh xa trò hưởng lạc thì niềm vui đến kiểu gì…
– Ấy là cái thâm sâu, tinh túy của người xưa đấy. Em cần phải phân biệt cho rõ, chữ “dật” đầu là cái thú hưởng lạc vô bổ, sáo rỗng, còn chữ “dật” sau, ấy là niềm vui hợp lẽ, chánh đương.
Nghe vậy, Nguyên trợn mắt chán nản. Cậu uể oải cầm bút lên, ngón giữa và ngón trỏ đã đỏ tấy, rớm cái rát tê tái như kim châm. Còn Quý Ly, y lại lên tiếng, giọng ngân dài, bắt đầu một thiên diễn giải về quốc dụng, lễ nhạc thời Lý.
Nói một hồi, quay lại, y thấy Nguyên đã gục xuống bàn, nằm lay lắt như cây chuối sau bão. Đầu Nguyên tì lên vở, mồm há ra, ngáy khe khẽ. Quý Ly nhìn đồng hồ, y đếm các vạch đen trên ấy theo cách mà Nguyên đã dạy:
Y cúi xuống, lay vai Nguyên. Phải lay tới lần thứ ba, thằng bé mới chịu mở cặp mắt lờ đờ, mặt mày nom bẹp dí như bánh tráng nhúng nước. Nguyên ngơ ngác nhìn Quý Ly, rồi lục đục cầm bút lên viết tiếp.
Quý Ly lại tiếp tục giảng giải. Nhưng lần này lời y như nước đổ đầu vịt, nghe tai này lọt tai kia, không thấm được giọt nào. Nguyên lại đổ ụp xuống bàn. Thấy thế, Quý Ly thoáng chau mày:
– Nếu đêm nay em chẳng gắng sức chuyên cần thì hai ngày cuối ắt phải nhọc nhằn khốn khổ.
– Không được, không học kịp đâu. Em ghét Sử, ghét lắm. Học không vào nổi. – Nguyên vò đầu, thở dài đánh thượt. – Em nói anh nghe, chỉ riêng lớp em thôi đã có cả một đội tuyển Sử siêu phàm. Nhắc tới chiếu dời Đô là biết ngay năm nào, nhắc trận sông Như Nguyệt là đọc được cả bài thơ của Lý Thường Kiệt. Em mà đi thi, chỉ tổ bẽ mặt!
Quý Ly nắm bàn tay phải gõ lên thành ghế. Tất nhiên, y gõ vào hư không:
– Chẳng hề gì. Em không cần thuộc lòng, chỉ cần hiểu. Hiểu sâu ắt viết thạo.
– Nhưng em có hiểu gì đâu! Ôi! Ước chi anh đi thi thay em được nhỉ?
Câu nói vu vơ ấy như mở ra một cánh cửa mới trong đầu, Nguyên bật ngồi dậy, mắt sáng rỡ:
– Hay là… lúc đi thi anh đứng bên cạnh đọc cho em chép? Dù sao ngoài em ra cũng đâu ai thấy được anh!
Thế là sau khi cân nhắc về khả năng Nguyên có thể học hết đống sách dày cộp trong vòng vài ngày tới, rốt cục Quý Ly cũng đành phải chấp nhận.
Chỉ chờ có thế, không đợi thêm một giây phút nào, Nguyên búng công tắc đèn như người ta tắt đèn rạp hát rồi phi vèo lên giường, chui tọt vào chăn. Chẳng mấy chốc, cậu đã ngáy ro ro.
Bình luận
Chưa có bình luận