Tin tưởng chờ đợi 1 – Tôi.
Nàng lấy vải ẩm nhẹ nhàng lau mặt tôi, rồi tay, lưng, cả người tôi. Tỉ mẩn, chăm chú, tận tâm. Trong thời gian đó, tôi chăm chú ngắm nhìn nàng. Cô gái trẻ khoảng 16-17 tuổi, gương mặt mộc thanh tú thon gọn, đôi mắt nhỏ, lông mày dài, nụ cười mỉm tinh khiết, làn da khỏe mạnh, tóc dài ngang vai buộc hờ hững bằng sợi dây nhỏ. Mỗi khi nàng đứng lên đi thay nước, tôi lại thấy vóc dáng nàng nhỏ nhắn mềm mại như một cánh hoa, đi lại nhẹ nhàng như một áng mây mùa xuân.
Vẻ đẹp nhã nhặn, ấm áp và êm đềm ấy gợi cho tôi những khoảng trí nhớ mơ hồ đến ai đó rất thân thuộc trong quá khứ. Nhưng quá khứ là gì, bối cảnh như thế nào? Tôi của quá khứ là ai? Tôi không thể lần tìm được trong trí nhớ trống rỗng của tôi. Dường như tôi cũng không có chấp niệm cần phải lục tìm lại quá khứ ấy. Tôi hiện tại có sự an phận và bình yên tuyệt đối, trong trạng thái thuần khiết của sự chấp nhận và tĩnh lặng. Những câu hỏi chỉ thoáng hiện ra rồi nó biến mất ngay lập tức. Tôi không có vọng động tâm tư nào cả, yên bình tiếp nhận niềm vui được cô gái trẻ tìm thấy.
Nàng lau đến phần vòng cổ tôi cuối cùng. Sợi dây đã cũ kỹ yếu ớt, sau vài lần nàng chạm vào thì đã đứt ra. Gương mặt nàng khi nhìn tôi thì thân thiện trìu mến, nhưng khi nhìn đến ba đồng xu gỉ đen trong tay lại hiện ra vẻ thành kính rất trịnh trọng. Nàng đặt ba đồng xu trên bàn, tiếp tục lau quanh cổ tôi, sợi dây đứt đã làm hiện ra lớp đất đen gỉ ở đó. Tôi tiếp tục thưởng thức trạng thái tĩnh lặng của mình.
Thế giới tự nhiên vốn có quy luật riêng của mình mà nhân sinh không thể hiểu hết. Mọi việc đến và đi theo cách của nó, người đời không thể can thiệp theo chủ kiến hạn hẹp và ý muốn ích kỷ của mình. Học được cách tự tại nhìn ngắm mây trời dù đang phải trôi giữa dòng thác lũ, đích thực là cảnh giới thượng cấp của sự thưởng thức và trí tuệ khôn ngoan. Trạng thái này mang lại cho tôi sự dễ chịu và bình yên tuyệt đối!
Tôi vui vẻ nhìn cô gái, vì nàng đã xong phần tôi, bắt đầu cầm ba đồng xu lên, nhúng khăn lau cho chúng. Tôi khép mắt hưởng thụ hương trầm lan tỏa trong ngôi nhà nhỏ này. Chậu hoa nhài cạnh cửa sổ thoang thoảng theo từng cơn gió. Trên gờ cửa chính treo một chiếc chuông gió nhỏ bằng kim loại, thỉnh thoảng kêu lanh canh trong trẻo đủ để tươi vui mà không làm ồn. Nàng dần dần đã lau sạch hai đồng xu, chuyển qua đồng xu cuối cùng.
"BÙNG". Bỗng sấm sét nổ đùng trong đầu tôi.
Dù không có cảm giác đau đớn gì về thể xác, nhưng toàn bộ giác quan tôi bị tê liệt mờ mịt trước những tiếng nổ vô hình trong đầu mình. Tôi đã tưởng rằng mình vừa bị tan xác, vỡ nát vụn và hình hài tượng đá khó lòng qua khỏi lần này.
Sau khi lớp mây mù chấn động trong đầu tan đi, khi vẫn còn hơi choáng váng, tôi nghe những âm thanh của ai đó vang lên trong đầu mình. Đó là một giọng nói mà tôi chưa từng nghe qua, chắc chắn không phải của tôi, vì đó là giọng nữ.
Quan sát tình thế, tôi bất ngờ hiểu được một phát hiện chấn động: Tôi đang "đọc" được suy nghĩ của nàng. Miệng nàng thỉnh thoảng đang lẩm bẩm điều gì đó không ra tiếng, nhưng khẩu hình một số từ hoàn toàn khớp với những gì tôi nghe được trong đầu mình. Khi hiểu được nguồn gốc của những âm thanh đó, tôi bình tĩnh ngay, và bắt đầu lắng nghe.
Dòng suy nghĩ của nàng thật rối loạn, nhưng tôi hiểu đây là tốc độ của suy nghĩ, nó không thể nào chuẩn xác như khi ta nói ra thành câu. Có nhiều từ ngữ làm tôi khó hiểu, nhưng đa số câu chữ đều tự động tương ứng rất tự nhiên với vốn hiểu của tôi. Hiện tượng này chính là "tâm linh tương thông" đây.
Ngồi trước mặt tôi, nàng cầm một lúc cả ba đồng xu trong bàn tay, mắt nhìn tôi. Câu hỏi chính của nàng lặp đi lặp lại vang lên trong đầu tôi: "Mình có nên thử gieo quẻ không? Sư phụ đã dạy mình nhiều lần cách gieo quẻ, tuy mình nhớ kỹ và có vẻ cũng dễ nhưng mình chưa bao giờ thực hành. Bây giờ có ba đồng xu này đây, gieo thử luôn hay đợi thầy về?".
Tôi cũng nhận ra thêm một điều: Thì ra, khi nàng nắm chặt cả ba đồng xu trong lòng bàn tay, tôi sẽ đọc được suy nghĩ của nàng. Tôi lại tự hỏi liệu nàng có kết nối được với suy nghĩ của tôi không, nên thử ngay để minh bạch câu hỏi này. Tôi tập trung vào một câu suy nghĩ duy nhất trong đầu: "Hãy thử gieo quẻ, đừng sợ gì cả."
Nàng buột miệng thành tiếng:
- Ừ… Thử thì thử, không sợ gì.
Tôi ngạc nhiên và sung sướng nhận ra sự kết nối hai chiều, hình dung ra cảnh chúng tôi sẽ kết bạn, tự giới thiệu cho nhau, và trao đổi sau đó. Hiện tại, tôi vẫn chưa biết gì về nàng, về sư phụ của nàng – người mà nàng rất kính trọng và luôn cần sự quyết định của ông.
Ba đồng xu sạch sẽ nằm trong tay nàng, tôi nhìn thoáng qua cũng biết nàng đã kỳ công thế nào để lau cho chúng được ra bộ dạng tươm tất thế này. Tôi không có ký ức nào về việc gieo quẻ với ba đồng xu này, nhưng tôi chắc chắn rằng chúng thuộc về tôi, thuộc về không gian cai quản và sở hữu của tôi, rằng tôi muốn các đồng xu ra mặt nào, chúng sẽ ra y như vậy. Có thể nói, các đồng xu này đều dưới quyền khống chế của tôi.
Vận mệnh, lời khấn của một người lại được quyết định từ ý nghĩ chủ quan của tôi thông qua đồng xu. Lần đầu tiên, tâm tư yên tĩnh của tôi bị động, vì người khấn sẽ là nàng. Tôi không biết nàng sẽ khấn gì và tôi có đưa ra được câu trả lời đúng không. Lo lắng nhưng đồng thời tôi phấn khởi, hai chúng tôi có duyên với nhau thế mà, lần đầu tiên nàng khấn cũng là lần đầu tiên từ khi tỉnh dậy, tôi nhận ra mình có một mối quan hệ "tâm linh tương thông" trong đời.
Chắp tay thành kính với ba đồng xu ở giữa hai lòng bàn tay, nàng lẩm nhẩm không thành tiếng mà chỉ khấn thầm: "Con tên là Thủy, không có họ, không biết ngày tháng sinh, năm nay 16 tuổi. Đây là lần đầu tiên con gieo quẻ Kinh Dịch, không biết khấn gì ngoài việc xin quẻ hãy cho con một lời khuyên nào đó."
Nàng khấn thầm như vậy ba lần. Trong lúc đó, tôi gật gù phân tích những thông tin về nàng. Đầu tiên, nàng tên Thủy - cái tên "nước" mềm mại rất hợp với hình dáng nhỏ nhắn và ánh mắt nhu mì của nàng. Thực ra, nước có muôn hình vạn trạng: Thủy có thể là nước của đại dương mênh mông đầy bất trắc, hoặc có thể là nước thác đổ cuồn cuộn tâm tư, hoặc cũng có thể của một dòng chảy thích lãng du, hoặc nước trong đầm thích ổn định và an phận,… Còn tôi chọn hiểu Thủy tên nàng như một dòng suối nhỏ an lành. Tiếp theo là tuổi, nàng 16 tuổi, tính theo năm, 16 năm trước là năm Thủy, đây là trùng hợp hay cố tình? Tôi chọn là sự cố tình, ai đó đã đặt tên nàng theo mệnh Thủy của năm nàng sinh. Nhưng tôi bấm số, 16 năm trước là năm mệnh Đại Hải Thủy, nghĩa là đại dương trải khắp bốn phương, thật là một dấu hiệu sóng gió vì sự vô chừng và bất định. Tôi vốn thích sự tĩnh lặng, nên dĩ nhiên không thích sự gầm gào cuồn cuộn của đại dương như đe dọa cuốn đi mất bóng hình nhu thuận của nàng, nên sau khi nhắm mắt tìm cảm nhận, ngay lập tức trong đầu tôi hiện ra cụm từ: "Thủy Thiên Nhu".
Những từ ngữ rời rạc xuất hiện và ghép lại theo ý chủ quan của tôi mà thôi: Thủy là tên nàng; Thiên là bầu trời phản chiếu suốt bốn mùa trong dòng nước ấy; Nhu là nhu thuận, tôi mong cuộc đời sẽ vì chữ "nhu" này mà đem lại cho nàng đời sống như một dòng suối nhỏ tha thẩn trong những bức tranh thủy mặc hữu tình và bình yên nhất. Hẳn nhiên, đây chỉ là chủ quan ý chí của tôi, tự mình đa tình, tự mình diễn giải, nhưng vẫn không thoát được vũ trụ quan mà tôi phải thuận theo.
Thực tế, Thủy Thiên Nhu là tên một quẻ trong 64 quẻ Kinh Dịch, nó mang ý nghĩa khác với ý tôi mong muốn dành cho nàng. "Thủy Thiên" chỉ nước trên trời, còn "nhu" không phải "nhu hòa" mà trích từ ý gốc "nhu yếu phẩm" là thức ăn. Ngoài ra, "nhu" còn một tầng nghĩa khác: Sự chờ đợi.
Tôi nghĩ đến đoạn này cũng là lúc nàng tung xu gieo quẻ. Sau 6 lần gieo, quẻ Thủy Thiên Nhu - quẻ thứ 5 trong 64 quẻ Kinh Dịch - hiện ra. Nàng viết lại nắn nót từng nét, đến kệ sách lấy xuống một quyển sổ mỏng cũ kỹ, quay lại bàn mở ra đọc thật lâu. Gương mặt nàng ngẫm nghĩ, có vẻ xúc động, cũng có vẻ bồi hồi. Vì nàng không cầm ba đồng xu trong tay nữa nên tôi không biết nàng đang nghĩ gì. Tuy vậy, tôi đoán là nàng hài lòng với câu trả lời từ quẻ này.
Như tôi đã giác ngộ từ lâu: Thế giới tự nhiên vốn có quy luật riêng của mình mà nhân sinh không thể hiểu hết. Mọi việc đến và đi theo cách của nó, người đời không thể can thiệp theo chủ kiến hạn hẹp và ý muốn ích kỷ của mình.
Do đó, không phải ngẫu nhiên là vì tôi muốn mà cụm "Thủy Thiên Nhu" xuất hiện; chắc hẳn là từ thẳm sâu tâm linh không gian của tôi và nàng, một thông điệp nào đó đã xuất hiện cùng lúc dành cho chúng tôi. Thông điệp ấy nằm ngay trong phần giải quẻ Thủy Thiên Nhu mà người đời đều sẽ tìm thấy khi mở ra đọc: "Chờ đợi - Có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công."[1]
Chờ đợi, với lòng thành thực và tin tưởng.
Có nhiều việc tưởng như hoang đường, nhưng chỉ cần niềm tin rằng chúng có thật, thì thế giới sự thật của việc ấy sẽ được tạo ra. Đôi khi tin tưởng không nhất thiết gắn liền với lý lẽ.
Tôi nhắm mắt, mỉm cười. Vạn vật vốn có lý lẽ của nó, nhân sinh không thể hiểu, chỉ có thể lựa chọn tin hay không mà thôi.
——————————
Tin tưởng chờ đợi 2 – Câu trả lời cho Thủy.
Thủy lau ba đồng xu đến thật sạch mới hài lòng. Đồng xu tròn, lỗ vuông, độ dày hơi mỏng vì đã mòn gỉ theo thời gian, nhưng chất liệu rất cứng, chắc, lại không lạnh lẽo mà khi chạm vào, nó mang cho người ta cảm giác vững chãi, ấm áp khiến tâm tình dễ chịu.
Thủy đã dành cả buổi để lau chùi bức tượng đá thật sạch, sau đó lau chùi ba đồng xu cẩn thận. Mỗi khi lớp đất đen và lớp gỉ bong ra, lòng cô lại thêm vui sướng như chính mình đang được gỡ bỏ những lớp trầm tích bó buộc. Không gian chưa bao giờ yên tĩnh như vậy, hương hoa nhẹ, tiếng chuông gió trong veo, sự hiện diện của bức tượng đá nhỏ dễ thương trên bàn, ánh nắng chiếu qua cửa sổ sau cơn bão,… Cô không biết yếu tố nào là lý do chính cho niềm vui của mình, có thể là tất cả chúng hợp lại trong một ngày hôm nay tạo ra sự đặc biệt. Sư phụ thường nhắc đi nhắc lại rằng mọi sự hợp-tan đều là duyên, mỗi yếu tố quanh ta cũng đều là duyên. Vậy thì những yếu tố tạo ra ngày đặc biệt này hẳn có duyên với cô, và cô rất thích điều ấy.
Sau khi lau sạch đồng xu thứ ba, cô cầm lên cả ba đồng xu, nắm chặt chúng trong tay. Sự dễ chịu thấm từ đồng xu vào từng thớ da của cô. Thủy cảm giác như vừa được bước vào một không gian nào đó rộng mở và kỳ diệu. Suy nghĩ của cô liên tục nảy ra những từ ngữ mới mẻ, đầy cảm hứng, háo hức, trong đó có câu hỏi xem mình có nên thử gieo quẻ không. Từ nhỏ đến giờ, cô đã nhiều lần nhìn sư phụ gieo quẻ, nghe ông giảng giải về các quẻ, hiểu về quẻ tĩnh và quẻ động, cách tra sách giải; nhưng Thủy chưa bao giờ nghĩ đến việc tự mình gieo quẻ đầu tiên mà không có sư phụ cạnh bên. Tất cả những quyết định quan trọng của cô đều cần ông cho ý kiến, cô mới đủ yên tâm và dám làm. Thế mà, bây giờ, cô tự đem một tượng đá lạ vào nhà – điều sư phụ rất kỵ - và còn nghĩ đến việc một mình gieo quẻ đầu tiên trong đời. Cầm ba đồng xu trong tay, cô cảm thấy háo hức làm sao. Đang cắn môi do dự, cô cảm thấy có suy nghĩ thôi thúc trong đầu mình "Hãy thử gieo quẻ, đừng sợ gì cả", như tìm được đồng minh, cô gật đầu bật ra thành lời:
- Ừ … thử thì thử, sợ gì.
Cô đặt ba đồng xu vào giữa hai bàn tay rồi chắp lại, thầm khấn: "Con tên là Thủy, không có họ, không biết ngày tháng sinh, năm nay 16 tuổi. Đây là lần đầu tiên con gieo quẻ Kinh Dịch, không biết khấn gì ngoài việc xin quẻ hãy cho con một lời khuyên nào đó cho hiện tại."
Càng khấn, cô càng cảm giác mình đang tương thông với ba đồng xu dù không thể giải thích được tại sao.
Cô tung xu 6 lần: dương-dương-dương-âm-dương-âm. Kết quả ra là một quẻ tĩnh, không có động, không có biến.
Cô viết chậm rãi quẻ ra tờ giấy, hồi hộp ghì cây viết vạch đi vạch lại từng nét, rồi đến kệ trà lấy quyển sổ giải quẻ của sư phụ xuống. Quyển sổ với bìa đã quăn queo, giấy vàng vọt mà cô đã thấy từ nhỏ và nghe sư phụ giảng giải nhiều lần.
Quyển sổ có tuổi đời còn lớn hơn cô, vì sư phụ kể đã dùng nó từ rất lâu trước khi nhận nuôi cô chục năm trước, lúc đó Thủy chỉ mới 6 tuổi. Trong từng trang giấy mỏng chép tay, ngoài 64 quẻ Kinh Dịch còn có phần ghi chú được chia làm hai cột: một bên là phần giải quẻ kinh điển chép lại từ các sách xưa, một bên là ghi chép riêng bổ sung từ kinh nghiệm riêng của sư phụ.
Sư phụ thuộc lòng các quẻ, gieo xong đã biết ngay quẻ nào, tên gì, luận giải như thế nào, nhưng ông vẫn có thói quen đặt sổ cạnh bên và mở ra đúng trang của quẻ đó như thói quen hỗ trợ cho suy nghĩ, hoặc cũng có thể ông xem đó là sự tương tác với quyển sổ - người bạn đồng hành của ông. Dù nhìn sư phụ làm những động tác này đến nỗi cô đã thuộc lòng từng cử chỉ, nhưng đến khi tự mình mở sổ tra giải quẻ, cô mới thấy mình chậm chạp như thế nào.
Mò mẫm từng trang, so sánh từng nét gạch để tìm ra quẻ đã gieo nằm ở đâu trong sổ, cần khá nhiều thời gian, may sao, đây là quẻ thứ 5 trong 64 quẻ, nên Thủy đã tìm ra được và thở phào.
Phần luận giải chung của quẻ được viết ngắn gọn trong sổ như sau:
"Quẻ Thủy Thiên Nhu, gồm hai quẻ đơn đặt chồng lên nhau: quẻ dưới là Càn, nghĩa là Trời, quẻ trên là Khảm, nghĩa là Nước.
Trời ở dưới, nước ở trên; nói cách khác, nước trên trời, điều đó để chỉ mây. Có mây, mây có nước thì thể nào trời cũng có mưa. Mưa tưới tiêu cho đồng ruộng, cây cối; mưa nuôi dưỡng nguồn thức ăn cho con người. Con người và vạn vật vốn dĩ luôn cần nước để sống, mỗi khi có hạn hán thì họ luôn cầu khẩn mưa đến. Nhưng khi cầu khẩn mà vẫn chưa có mưa, họ cần chờ đợi với niềm tin tưởng và sự lạc quan; bởi lẽ, dù thế nào, sau cơn hạn hán, mưa nhất định sẽ đến, vạn vật sẽ tiếp tục sinh sôi nảy nở, những cánh đồng sẽ xanh và muôn sắc hoa sẽ nở."
Thủy đọc đi, đọc lại rồi ngẫm nghĩ về lời khấn của mình, càng nghĩ càng thấy nó có một sự hợp lý nào đó cho lời khấn ngược đời của mình. Sư phụ thường nói, những lời khấn để gieo quẻ phải càng rõ ràng, cụ thể càng tốt. Lời khấn của Thủy ngược đời ở chỗ đó, nó rất chung chung chỉ là "hãy cho con một lời khuyên nào đó", thật giống một lời khấn đùa chứ không cụ thể gì cả dù cô thành tâm mong nhận được một lời khuyên. Lời khấn ấy cũng y như trạng thái nội tâm của Thủy: mông lung, không hiểu mình muốn gì, cần gì, ngay cả cho một câu hỏi.
Vậy mà nhờ đọc quẻ này, Thủy như tìm ra được đáp án cho một câu hỏi mơ hồ của chính mình. Từ nhỏ đến giờ, Thủy vẫn luôn có cảm giác rằng mình đang chờ đợi một điều gì đó, nhưng không thể gọi tên hay hình dung ra điều đó là gì. Nó như làn khói không thể nào nắm bắt được. Nó như một linh cảm đập cùng với trái tim cô mà thôi. Thủy từng ngồi nhìn dòng nước nhỏ len lỏi trong vườn, và tự ví mình cũng như thế, cứ lặng lẽ chảy qua ngày, qua tháng, qua năm, và vì nó nhỏ bé quá nên nếu không nhận ra được phương hướng, cũng không có nguồn tiếp sức nào, dòng nước sẽ bị lạc hướng, khô cạn, và biến mất trên hành trình đời mình. Cuộc sống của cô, một đứa trẻ mồ côi sống trong sân sau một ngôi chùa nhỏ, thật sự không biết phải đặt hy vọng của mình vào điều gì. Khi không tìm ra được một lý do để hy vọng, người ta bắt đầu mòn mỏi và tuyệt vọng. Thủy còn trẻ, nhưng cô đã bắt đầu bi quan và tuyệt vọng, cho đến thời điểm này.
Với quẻ đầu tiên tự gieo, với câu trả lời là Chờ đợi – chờ đợi với sự tin tưởng và lòng thành thực, Thủy bỗng như được tiếp sức thêm nguồn năng lượng nội tâm mới. Không cần biết chờ đợi điều gì, nhưng câu trả lời này đem cho cô ánh lóe của hy vọng – ánh sáng của một sự kết nối tuy mơ hồ nhưng có thể làm con người cảm động.
Đúng lúc này, khi Thủy đang vu vơ suy nghĩ, một tiếng động lạ vang lên ngoài sân…
Thủy nhìn qua khung cửa sổ, lập tức ngẩn người trước cảnh ngoài sân ngay ngôi mộ đá cổ.
________________________________________
[1] Lời giải trong quyển Kinh Dịch của Nguyễn Hiến Lê (NXB Văn Học, 1999). Từ đây về sau, những thông tin về Kinh Dịch nằm trong dấu ngoặc kép đều được trích ra từ quyển này.
Bình luận
Chưa có bình luận