03: Ba hạt đậu


Con tàu Hy vọng nổi trôi trong vũ trụ, tự phụ gọi mình là một hành tinh lang thang.

Sau một loạt dịch bệnh khủng khiếp bùng phát mạnh mẽ trên Trái đất, cộng thêm những cuộc chiến tranh giành tài nguyên hòng khôi phục kinh tế nhưng chỉ càng làm mọi sự thêm nát bét, loài người tuyệt vọng làm ra vài con tàu vũ trụ, đưa vào đó số dân tương đương với một thành phố rồi đá bay ra khỏi Trái đất. Mỗi con tàu đều mang sứ mệnh đi tìm một hành tinh mới để lưu lại, viết nên lịch sử về một Trái đất mới. Nghe nói những con tàu khác vẫn liên tục được làm ra, không ngừng tìm cách di dời nhân loại về với một mái nhà mới.

Con tàu Hy vọng là con tàu thứ bảy rời khỏi hành tinh xanh, lang thang trong bóng tối của vũ trụ, trên con đường đi đến chòm sao Đất mới với hy vọng tìm được một hệ Mặt trời thứ hai, một Mặt trời khác, một Trái đất khác. Một cuộc sống khác.

Khoảng hơn một trăm năm sau khi rời đi, Hy vọng đã không còn nhận được bất kỳ tin tức gì từ Trái đất hay từ những con tàu khác. Giống như cái tên của mình, đích đến, thông tin liên lạc hay cả số phận của tất cả những người sống trên con tàu này đều được gửi gắm cho hy vọng. Mà hy vọng thì mông lung như thể một giấc mơ đọng lại trong ký ức lúc vừa mở mắt tỉnh lại từ một giấc ngủ dài mê mệt.

Con tàu có hình dạng như một kết cấu tổ ong khổng lồ, với ý tưởng nếu một hay nhiều phần bị thiệt hại thì lập tức sẽ bị cắt đi, biến mất như một mẩu rác vũ trụ nhưng vẫn khó làm ảnh hưởng được đến kết cấu và chức năng chung của toàn bộ tổ ong. Dĩ nhiên đó là để dành cho trường hợp xấu nhất.

Và mẩu thiên thạch lọt qua hệ thống cảnh báo kia đã chứng minh cấu trúc tổ ong này quả là có tác dụng. Hai trăm mười lăm người chết, nhưng những phần còn lại nhanh chóng đóng chặt, giữ lại không khí và sinh mạng cho hàng trăm ngàn người bên trong. Lộ trình của Hy vọng cũng theo đó mà bị lệch, nhưng qua bấy lâu, chòm sao Đất mới cũng dần trở thành một cái tên mơ hồ. Nhiều thế hệ đã được sinh ra trên con tàu vũ trụ này, nhiều thế hệ đã quên đi vì sao họ lại có mặt ở đây, người người đã không còn nhớ họ phải đến đâu, để làm gì.

Con tàu ấy đã không còn giữ được hình dáng vẹn nguyên ban đầu, khuyết đi một mảng, bị cư dân đùa cợt gọi là củ khoai tây. Nó lạc khỏi hệ Mặt trời của mình, cùng với cư dân sống trong đó, cố gắng tìm một đích đến mới, để lần nữa nuôi dưỡng sự sống của loài người. Nhưng khi nhiên liệu trong dự tính không đủ, ánh sáng và gió năng lượng từ những vì sao xa quá yếu, con tàu gần như chỉ đủ sức nổi trôi trong không gian vô tận.

 

 

Abe làm việc ở trạm tín hiệu số 7 của con tàu Hy vọng, người duyệt nội dung báo cáo về những ngôi sao. Có tổng cộng chín trạm tín hiệu trên toàn bộ con tàu lớn này, thế nhưng năm trạm đã ngừng hoạt động, hai trạm chỉ có một người vận hành cho có. Chỉ còn trạm số 7 và số 1 hãy còn hoạt động đúng nghĩa. Hai trạm tín hiệu ở hai đầu của củ khoai tây, cùng chờ đợi một tín hiệu của hy vọng, dành cho Hy vọng.

Đó quả thật là công việc cực kỳ nhàm chán. Có lẽ bởi hy vọng vốn là một điều quá mơ hồ và xa xôi.

Những ngôi sao thì ở quá xa, con tàu thì lại bồng bềnh trôi đi rất chậm. Những thông tin đều đều chảy đến, những biến số cũng thay đổi rất từ tốn. Cậu nhìn chúng lặp đi lặp lại mỗi ngày, nhớ đến bài tập gieo đậu của mình khi còn bé.

Mỗi người trong lớp được phát cho ba hạt đậu, gieo nó xuống lớp đất ẩm và chờ đợi. Mỗi ngày, những đứa bé đến nhìn hạt đậu trong giờ học, nói chuyện với nó vài câu và ghi chép lại vào một cuốn sổ nhỏ để làm nhật ký trồng cây. Cây đậu của Linh đã đâm được rễ trắng, lá mầm nhú lên từ lớp đất mỏng trong khi cái hộp nhỏ của Abe vẫn làm thinh mà chẳng chịu làm giá.

“Có thể tại vì cậu đã tưới nước quá nhiều.”

Linh ấn nhẹ lên lớp đất xung quanh cái mầm đậu của mình, thử nghĩ đến chuyện bới cái mầm đậu của Abe lên nhưng bị cậu ngăn lại.

“Có mà tại cậu cứ hau háu trông cái cây của tớ nên nó mới sợ không dám mọc lên ấy.”

Linh kêu lên re ré, thậm chí còn đòi giật tóc cậu, Abe quay lại trêu chọc cô. Cậu không nói cho Linh biết thực ra phía sau bộ mặt điềm tĩnh ấy, mình cảm thấy chán nản khi mỗi ngày ghi vào cuốn vở vài chữ “chưa nảy mầm”. Đôi lúc cô giáo sẽ đến thăm cái cây của đám học sinh, cô cũng giống Linh, muốn bới cái mầm đậu hẳn là đã chết của cậu để trồng xuống những cái mầm đã nảy lên khác.

“Không, con chỉ muốn cây đậu của con mà thôi.”

“Nhưng có lẽ là nó đã…” Cô giáo ái ngại tìm một từ gần với từ chết. 

Abe những muốn bật cười bởi sự ái ngại của cô. Lúc ấy cậu nào có xa lạ gì với cụm từ ấy, vì sao người lớn cứ phải đề phòng khi nhắc đến cái chết trước mặt cậu nhỉ. Abe lắc đầu.

“Không đâu, nó hứa với con là nó sẽ nảy mầm rồi. Con phải tin nó chứ.”

Cô giáo thở dài. Nghe nói “những đứa trẻ đến từ những vì sao đều rất nhạy cảm”.

Những cây non đã nảy mầm sẽ được mang đến khu nông trại, gộp vào với những hạt đậu khác do những cánh tay robot gieo trồng, được chăm sóc và nuôi dưỡng thành những cái cây. Đám trẻ có thể đến thăm những cái cây của mình, chụp ảnh và lưu lại, vài đứa giữ chúng như một món đồ may mắn. Abe không có thứ may mắn này.

Trong cuốn sổ nhạt nhẽo lặp lại mấy chữ “chưa nảy mầm”.

Abe nhìn lên bàn của mình, nhìn màn hình máy tính hiện ra những bức ảnh và bảng biểu, trên đó có đo độ sáng của những ngôi sao, khoảng cách từ củ khoai tây này đến ngôi sao gần nhất, những bức ảnh quét vùng không gian xung quanh… Con tàu vẫn không ngừng gom chút sức lực nhỏ, lầm lì cố gắng đi về phía cụm sao cần nhất.

Dù trông phúc tạp hơn nhưng thực ra nó cũng chẳng khác gì cuốn nhật ký theo dõi cái mầm đậu đã chết của cậu. Thậm chí đôi lúc Abe nghĩ rằng có nhắm mắt cậu cũng có thể đọc thuộc lòng vài cột biểu đứng yên trong đó.

Vậy nhưng Abe vẫn nghiêm túc đọc và so sánh chúng mỗi ngày. Bởi cậu không muốn bỏ sót bất kỳ tín hiệu nào. Dù là tín hiệu của một thiên thạch mang đến hủy diệt hay tín hiệu của một hệ sao có thể mang lại sự sống. Con tàu này cần phải biết và có lẽ bài học cậu rút ra được từ ba hạt đậu chết yểu ấy thực ra chính là sự kiên nhẫn với những điều nhàm chán bất tận thế này.

Hôm nay, khi cậu đang ngồi dò lại bảng số liệu mà những máy đo chuyển về, sau lưng bỗng vang lên tiếng mở cửa.

Một ly trà nóng được đặt lên bàn, chiếc ghế bên cạnh bị kéo ra một chút.

“Hôm qua cậu đã đi xuống tầng cuối cùng à?”

Dù đã biết người đến là ai, Abe vẫn ngước lên nhìn cô. Chi hôm nay mặc một chiếc áo màu kem, đôi môi được cẩn thận tô màu đỏ, máu tóc nhuộm màu rêu tro bụi. Dù mang nhiều màu sắc, trông cô vẫn hài hòa và mang đến một cảm giác cuốn hút kỳ lạ. Mỗi lần nhìn Chi, Abe luôn cảm thấy thế. Cô thường không thích trang phục màu đen hay trắng thuần, lúc nào cô cũng cần màu sắc, để rồi phải tìm cách cân bằng chúng. Có một số người nghĩ rằng cô trông hơi đồng bóng. Một trong số đó là Linh.

“Ừ.”

Chi đẩy cốc trà sát lại gần cậu hơn.

“Vậy thì uống đi, trông như thể tâm trí cậu vẫn kẹt ở đó ấy.”

“Tệ đến vậy cơ à?” Abe nhíu mày.

“Cậu có thể không cần phải đi cơ mà.”

Chi lẩm bẩm. Dù nghe chữ được chữ mất, thế nhưng Abe vẫn hiểu ý cô là gì. Có lẽ phụ nữ đặc biệt tinh ý ở điểm này. Dù chỉ gặp nhau có vài lần, hay biết nhau qua mấy câu chuyện vu vơ không đầu không cuối của Abe, họ vẫn có thể chẳng ưa nhau cho kì được. Linh nhìn tấm ảnh Abe chụp với Chi và chê cô đồng bóng, thích tỏ ra làm chị cả của cậu. Chi nhìn cậu đi với Linh vài lần, nói với nhau chắc chẳng quá được hai mặt giấy A4 nhưng có vẻ cô đã kịp nhận ra thái độ của Linh, nhanh chóng cảm thấy Linh khó ưa.

Cậu không phủ nhận lòng tốt của Chi đối với mình nhưng khi kẹt giữa mối quan hệ giằng co âm thầm giữa hai cô gái, Abe chỉ có thể giả câm giả điếc. Abe không hiểu vì đâu mà hai mối quan hệ thân thiết của cậu lại đi về bước đường này. Chỉ có một điều mà họ đều chắc chắn, đó chính là câu chuyện này chẳng hề dính dáng gì đến chuyện yêu đương, bởi thứ nhất là cậu và Linh không phải một đôi, thứ hai là Chi đã đính hôn với người yêu suốt bốn năm của mình.

Có lẽ họ không ưa nhau đơn giản là do lỗi của định mệnh mà thôi. Abe thở dài.

“Cảm ơn vì trà, nhưng nói thật là đến giờ tớ vẫn không hiểu được vì sao cậu luôn có vẻ không thích Linh. Thậm chí là dù cô ấy đã chẳng còn nữa rồi.”

Chi hơi quay mặt đi. Ánh sáng từ màn hình chiếu hắt xuống gương mặt cô. Một chấm sao vừa vặn đặt lên gò má, trông như một chấm trang điểm thời thượng, lại vừa giống một giọt nước lấp lánh của nỗi buồn.

“Cậu nói ra thì nghe tớ có vẻ tồi thật đấy. Chẳng qua tớ sợ cậu sẽ…” Chi ngập ngừng.

“Bị ảnh hưởng?” Abe nói nốt.

“Ừm.”

Chi quay sang nhìn người trước mặt và rõ ràng cô nhận ra là cậu không hề tin mình. Chấm sao nhỏ bé rơi lên sống mũi cô, hơi chếch về bên trái và hơi run lên. Cuối cùng cô âm thầm thở dài và khẽ nói thêm.

“Bởi dù còn sống hay đã chết, cô ấy vẫn luôn tìm cách điều khiển cậu.”

Chỗ nào nhỉ. Abe nhấc hai cánh tay, như thể ngốc nghếch chứng minh là chẳng có sợi dây nào được nối trên những khớp tay của mình. Cậu nào phải một con rối vô tri để cần ai điều khiển. Cậu là cậu. Cậu tự cảm thấy quyết định của Linh là ích kỷ, đó có phải minh chứng rằng cô ấy chẳng hề điều khiển được cậu như lời Chi vẫn luôn nói không. Abe nhướn mày và nhìn Chi. Cô xoay mặt khỏi ánh sao kia và hơi lườm cậu.

“Cứ sống như một thằng ngốc thì cũng là một ý hay đấy, nhưng rõ ràng cậu không rõ là mình đã mất đi những gì đâu.”

“Mất gì cơ?”

Chi nhìn thẳng vào mắt cậu một lúc, đến nỗi Abe bối rối buộc phải cụp mắt xuống trước.

“Thôi vậy. Đáng đời cậu lắm.”

Abe nhún vai. Ai đó đã nói phụ nữ là để yêu, chẳng phải để hiểu, đúng không nhỉ. Dù cậu không yêu những cô gái này nhưng rõ ràng cũng chẳng thể hiểu họ. Vậy thì cứ để vậy đi. Chi cũng ngước mắt nhìn lên những hình ảnh và số liệu trước mắt. Cô nhập một vài dữ liệu vào máy đo, cẩn thận so sánh từng dòng.

“Ngày xưa cậu có từng trồng đậu không?”

“Trồng đậu gì cơ?”

Cái không khí trầm lặng ngứa ngáy khiến Abe bất chợt nghĩ đến câu chuyện trồng đậu nhàm chán của mình, hỏi Chi nhưng cô chỉ đáp lại một cách ngờ vực như thể sợ rằng cậu đồng nghiệp của mình vừa không cẩn thận để não nhúng nước.

“À, cái trò gieo đậu rồi viết nhật ký hồi cấp một phải không?”

“Ừ.”

“Có chứ. Cái đó ai chẳng phải làm.”

“Vậy cây đậu của cậu có sống không?”

“Có chứ. Cả ba cây. Cái đó thì ai…” Chi khựng lại, thoáng e dè hỏi ngược. “Ừm, thế cây của cậu thì sao?”

Abe gãi đầu.

“À, chết cả. Cả ba cây.”

“Ừm, đôi khi cũng có người bị như vậy đó. Không sao đâu.”

Thật là một người tử tế, hoặc ít nhất thì Chi là một người biết an ủi người khác. Còn Abe chợt không hiểu vì sao cô có thể làm được công việc nhàm chán này mà chẳng cần phải học qua bài học về ba cây đậu chết. Chi gõ nhẹ cây bút lên bàn, như chợt nhớ ra gì đó liền hỏi lại.

“Bởi vậy nên lần trước cậu vẽ tranh về ba cây đậu đấy à?”

“Ừ.”

“Dạo này không thấy cậu vẽ nữa nhỉ.”

“Cái gì cậu cũng biết nhỉ. Tớ… chẳng qua là không có hứng thôi.”

“Thỉnh thoảng đi ra ngoài một chút cũng tốt. Tìm được cảm hứng thì ok, không thì tìm chút cà phê hay rượu ngọt cũng được đấy.”

Chi không ngẩng lên nữa. Cô bấm nút nhận kết quả. Chiếc máy in trong phòng lạch cạch kêu thành tiếng, những tờ giấy nhỏ dần được in ra.

Chợt Abe lại nghĩ đến những gì Linh nói, đến chỉ dẫn của cô. Chi với tay cầm lấy tờ giấy, xem một lượt và rồi đặt nó sang bên, chờ một lượt số liệu mới. Đôi mắt Abe di chuyển theo từng cử chỉ của cô nhưng tâm trí cậu lại lang thang trong câu chuyện ngày hôm qua. Về Linh và cả cô gái cậu đã gặp trong thang máy.

“Này, cậu nghĩ nếu quên đi có phải là chuyện tốt không nhỉ?”

“Hả? Đừng cứ đột ngột nhảy chủ đề nhanh như vậy chứ. Tớ cũng cần thời gian để thích nghi đấy.” Chi hơi ngẩn ra, gắt lên, rồi lại nhanh chóng như đã hiểu ra. “Cậu đang nói đến… Linh?”

“Thôi bỏ đi.”

Abe phẩy tay. Không khó để đoán ra câu trả lời của Chi. Với cái mối ác cảm kỳ lạ mà hai cô gái đó dành cho nhau, Abe nghĩ mình đã đoán ra câu trả lời.

Chi cắn môi và sau một chút chần chừ, cô đáp.

“Cũng không hẳn đâu.”

“Hả?”

Giờ đến lượt Abe ngạc nhiên trước câu trả lời hoàn toàn khác hẳn dự liệu của mình. Cậu tròn mắt nhìn Chi, nhìn vẻ mặt cô vừa có chút bất lực, vừa có vẻ khổ sở không nói lên lời. Khi ánh mắt họ chạm nhau, Chi bỗng gắt nhẹ một tiếng.

“Ngạc nhiên cái gì. Tớ vừa nói gì đáng sợ lắm à.”

“À không...” Cậu hơi bối rối, khẽ lắc đầu. “Nhưng chẳng phải nếu quên đi những kỷ niệm đau lòng thì mình sẽ cảm thấy tốt hơn sao.”

“Hừ, ngay lúc hỏi câu này, tâm trí cậu cũng đã kháng cự lại chuyện muốn quên đi còn gì. Quên đi kỷ niệm đau lòng thì nghe có vẻ hay đấy, nhưng nó cũng là một phần của cậu kia mà. Cắt bỏ chính mình như vậy có thực sự ổn không. Mà quên đi những kỷ niệm xấu cũng có thể khiến cậu vô tình quên đi cả những kỷ niệm đẹp. Rồi những khoảng trống trong ký ức rồi sẽ nhắc lại về sự tồn tại của người ấy, của những kỷ niệm đẹp với xấu kia. Đến lúc ấy chắc chắn cậu sẽ còn thảm hơn nhiều Abe ạ, bởi vì quên đi đâu có dễ dàng như vậy.”

Abe gật gù như mới nghe được một triết lý khủng khiếp lắm. Cả cái cách Chi nói về một chuyện nghiêm túc tới nhường ấy cũng khiến cậu cảm thấy ngạc nhiên. Cô lặng nhìn cậu, như thể qua cậu cố gắng tìm kiếm một thứ gì khác. Abe ngắc ngứ cầm cốc trà giờ chỉ còn hơi ấm và uống một ngụm.

“Nhưng mỗi người đều có lựa chọn của riêng mình. Tốt hay xấu, có lẽ chỉ khi thực sự trải nghiệm thì họ mới biết được thôi.”

“Ừ.”

“Bởi vậy cậu hãy cứ suy nghĩ cho kỹ đi.”

Cốc trà được đặt xuống. Câu chuyện này lạ quá.

“Chúng ta đang nói về Linh phải không?”

Abe bất chợt hỏi vậy nhưng Chi chỉ nhíu mày.

“Chúng ta đang nói về cậu đấy. Linh hay bất kỳ ai trong cuộc đời cậu đều xứng đáng được suy nghĩ thật kỹ càng trước khi cậu lựa chọn có lãng quên họ hay không. Cậu không thấy vậy sao.”

Abe vội vàng gật đầu lia lịa. Chi quả thực là một người tử tế.

Nếu Linh còn sống, cậu chắc chắn sẽ bảo vệ Chi trước mặt cô mạnh mẽ hơn. Cậu sẽ nói với Linh rằng Chi đam mê những sắc màu rực rỡ là bởi tâm hồn cô ấy cũng rực rỡ và đẹp đẽ như vậy đó thôi.

Nhưng khi đứng dưới thứ ánh sáng quá mạnh, quá rực rỡ như vậy, Abe bỗng cảm thấy mình thật tối tăm và tồi tệ. Có lẽ bởi cậu đã có suy nghĩ hay là quên Linh đi, đừng chạm đến bất cứ thứ gì cô ấy từng chạm vào, đừng nghĩ về bất kỳ thứ gì cô ấy nói, đừng cố tìm hiểu lý do vì sao cô ấy lại nghĩ hai người tràn đầy khác biệt. Đừng chấp nhận rằng cái chết của cô ấy khiến cậu mất phương hướng.

Abe thở dài, cảm thấy lòng mình chùng xuống khủng khiếp. Cái suy nghĩ trong đêm mùa xuân nọ lại ùa đến, lởn vởn trong đầu cậu, thì thầm những điều vô nghĩa.

Hôm ấy, sau khi tan làm, Abe vẫy tay chào tạm biệt Chi, nhìn cô đi vào thang máy rồi mới tự mình rẽ vào con đường để xuống phố mua sắm. Đã khá lâu rồi cậu mới lại đến khu này, hình như là kể từ ngày Linh không còn đến đợi cậu trước cửa trung tâm và rủ cậu cùng đi nữa.

Hôm đó vẫn đang là một ngày mùa xuân, như bao ngày khác. Không nắng, không mưa, hẳn rồi. Bầu trời phía trên đã được đổi màu, ngả về màu đỏ cam của chiều tà, những áng mây cũng phơn phớt đổi màu, tất cả đều mang dáng vẻ nhàn nhã. Nhiệt độ duy trì ở mức hai mươi hai, vừa đủ làm nguội đi mọi suy nghĩ vội vã hay bốc đồng.

Mọi người đi trên phố đều có vẻ thong thả và bình tĩnh. Abe bước xuống phố và đi theo họ.

Không thể nắng, cũng không thể mưa, lại càng khó lòng nói chuyện về thời tiết, cuộc sống bên trong củ khoai tây này là vậy. Những đóa hoa anh đào màu phấn hồng mọc đầy trong những tấm biển quảng cáo giăng khắp nơi. Nó cũng là thứ duy nhất giúp phân định được bốn mùa ở nơi đây. Những loài hoa mùa xuân sẽ khác những tán lá mùa thu, sắc màu mùa hạ sẽ khác cảnh trí ngày đông. Những màu sắc và hình ảnh của những loài cây đặc trưng xoay chuyển trên những tấm biển trở thành thứ dấu tích cuối cùng phân định bốn mùa trong năm.

Hoa anh đào hôm nay nở đầy, những cánh hoa bung nở trên cây, những tàn hoa không ngừng rơi xuống, chậm rãi như trong một bài hát lấy cảm hứng từ tốc độ rơi của những cánh hoa yểu mệnh này. Đôi lúc, cả con phố đều khẽ nghiêng mình khi những cánh hoa cùng bị thổi đi, miêu tả một cơn gió vô tình. Khi Abe vừa hòa mình vào dòng người chậm rãi thì cũng vừa lúc một cơn gió vừa thổi tới. Mũi cậu hơi ngứa. Chắc chắn nguyên nhân chẳng phải bởi những cơn gió vô tình. Nếu trong một thế giới nơi những cây hoa anh đào thực sự được trồng lên và nở hoa rực rỡ, Abe chắc sẽ thuộc kiểu người dễ bị dị ứng phấn hoa hay mẫn cảm với thời tiết.

Linh từng nói dù chỉ là một cơn gió giả tạo cũng đủ để khiến cậu ngứa mũi, vậy thì một cơn gió thật sự hẳn là có thể quật ngã cậu lăn ba vòng và đánh gục cậu vào bệnh viện chẳng dậy nổi. Những lúc như vậy, cậu chỉ có thể cười trừ. Nào họ đã được diện kiến một cơn gió thực thụ bao giờ đâu. Thỉnh thoảng, nếu đi qua những lối hẹp mà gần đó là một lối thông gió lớn, họ thỉnh thoảng có thể cảm nhận được dòng lưu chuyển mạnh mẽ của không khí. Nhưng những cơn gió đi từ nơi có khí áp cao đến nơi có khí áp thấp như trong sách địa lý, những cơn gió mang theo mùi hoa đều đã ở lại trong những trang sách hay phim ảnh cả rồi.

Nếu bị quật ngã bởi một cơn gió thực thụ hay bởi chứng dị ứng thực thụ, có lẽ Abe cũng chẳng phàn nàn đâu.

Rồi bỗng trong một cơn gió vô hình như thế, khi những cánh hoa trong những tấm biển chạm đất, vun thành một đống lớn rồi chẳng mấy chốc sẽ biến tan, ngay lúc ấy, Abe ngửi thấy một mùi hương. Cậu nhăn mũi, cố gắng nắm bắt thứ mùi hương mỏng manh và kỳ lạ ấy. Không có vị ngọt của loại nước hoa cao cấp mang mùi hoa, cũng không có vị đắng của loại nước hoa bình dân mang mùi cỏ, mùi hương kia khá khó để phân định cho rõ ràng xem nó ở phân cấp nào, người dùng có đẳng cấp hay chăng.

Abe ngẩng đầu và nhìn quanh, cố tìm một gương mặt có vẻ khác biệt nhất.

Một mùi cỏ hơi đắng đi ngang qua, vô tình cắt đi dấu vết mỏng manh vừa dậy lên. Những khuôn mặt na ná giống nhau thong thả đi dưới bầu trời giả tạo. Abe đành bỏ cuộc. Cậu bước đến trước một tiệm bánh và mua một phần bánh ngọt.

Ai đó đã nói rằng lúc tâm trạng không tốt thì đồ ngọt sẽ giúp tâm trạng tốt hơn một chút. Và có lẽ tâm trạng không tốt của cậu đã vô tình bùng nổ trong sự yên tĩnh kỳ lạ, bởi Abe đã gọi đến ba phần bánh. Khi đứng trước thực đơn của cửa tiệm, cậu thành thạo bấm liền ba món. Một phần mà cậu hay chọn, một phần mà Linh hay chọn, và phần còn lại là một miếng bánh vị socola. Cậu trai bán bánh hồ hởi hỏi lại.

“Anh có cần gói lại không ạ?”

Abe gật đầu. Cậu không nhớ mọi khi mình đã gọi bánh thế nào. Cậu nhớ rõ Linh luôn thích vị việt quất, cậu thích vị chanh có lẫn một chút vỏ đăng đắng. Cậu chỉ không nhớ mọi khi nào có thêm cả một phần bánh socola. Rồi Abe chợt nhớ rằng cả mình và Linh cũng đều thích socola, có lẽ cả hai đã gọi rồi chia nhau ăn chung lúc nào đó chăng. Đến khi nhìn lại chỉ còn mình mình đứng trong một quán bánh ngọt, Abe đã hơi hối hận, những muốn trả lại hai phần bánh kia nhưng khi cậu trai kia nhắc đến cái “mọi khi” đó, cậu lại đổi ý. Abe gật đầu đáp rằng phải rồi.

Ba miếng bánh thì ba miếng thôi. Nghe nói socola cũng giúp cải thiện mấy cái tâm trạng nát bét. Tốt lắm. Mấy hôm trước cậu còn vừa thoáng nảy lên cái suy nghĩ muốn chết đây. Lẽ ra nên mua cả một chiếc bánh socola đường kính lớn nhất mang về để tủ lạnh ăn dần mới đúng.

Khi cậu trai bán bánh mỉm cười và đưa chiếc hộp nhỏ cho Abe, tâm trí cậu vẫn còn mắc kẹt ở đâu đó trong việc ăn cả một cái bánh socola cỡ bự để trả thù cuộc đời. Vậy nhưng một phần của cuộc đời lại niềm nở nói với cậu rằng:

“Chúc anh một ngày tốt lành.”

Ngày bên ngoài đã sắp tàn cả rồi. Cậu trai mỉm cười và gật đầu như thể khích lệ. Có lẽ cái câu nói về đồ ngọt hay socola giúp cải thiện tâm trạng mà cậu đã nghe được chính là từ cái cửa tiệm này cũng nên. Abe đáp lại cậu ấy bằng một lời cảm ơn rồi ra về.




Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout
}