Giữa lúc đó, một chàng trai trẻ xuất hiện. Điềm tĩnh và đầy ẩn ý, liệu anh sẽ là người giúp Liên tìm ra câu trả lời, hay chỉ là một mắt xích khác trong bí ẩn về thân phận của cô?
Cả vùng này không hề có ánh điện, từ nhà này sang nhà khác đều thắp đèn dầu, toả ra thứ ánh sáng vàng đục lay lắt. Không gian chìm trong tĩnh lặng, yên ắng như một làng quê hẻo lánh bị lãng quên giữa núi rừng. Giữa gian nhà chính, khói từ bếp lửa toả ra nghi ngút, người phụ nữ chủ nhà thỉnh thoảng cầm chiếc vá khuấy đều nồi canh trên bếp.
Người phụ nữ trạc tuổi ba mươi, quấn khăn trên đầu, mặc áo và chân váy dài màu đen dệt những đường hoa văn sặc sỡ song song theo chiều ngang.
"Nhà không có gì mong mọi người dùng tạm."
Người phụ nữ múc đồ ăn trong nồi ra chén, Quang Diệu và Xuân đồng thanh:
"Cảm ơn chị, chúng em đã ăn rồi. Phiền chị lấy cho cô gái này thôi."
Người phụ nữ nở một nụ cười hiền hậu:
"Được rồi!" Người phụ nữ đưa chén về phía Liên: "Em cầm lấy."
"Dạ em cảm ơn chị!" Liên đưa hai tay lễ phép nhận lấy.
Trong cái rủi cũng có chút may: chưa rõ hai người kia sẽ dẫn mình đi đâu, tốt hay xấu, nhưng nhờ họ mà Liên mới có bữa ăn lót dạ sau cơn đói. Ánh đèn dầu lờ mờ khiến cô chẳng nhìn rõ trong chén là gì, chỉ thấy sóng sánh như canh, thoang thoảng mùi bắp. Cô múc một muỗng, hạt bắp bùi nơi đầu lưỡi, nước sền sệt ngọt thanh. Ngoài bắp và nước, chẳng còn gì khác; Liên cũng không biết nên gọi đó là chè hay canh.
"Chúng em xin phép ra ngoài một lát."
Hai người kia không ai bảo ai đứng dậy bước xuống cầu thang đi thẳng ra sân. Trong lúc vừa nói chuyện, họ thỉnh thoảng lại ngước mặt nhìn lên ngôi nhà sàn như muốn trông chừng Liên vẫn ở đó. Liên mặc kệ họ đang toan tính gì, cứ ăn lấy sức trước đã rồi tính sau.
Thấy Liên đặt chén xuống sàn, người phụ nữ hỏi:
"Em ăn thêm một chén nữa chăng?"
"Dạ em no rồi!"
Thực lòng, từng ấy chẳng thấm vào đâu với cơn đói cồn cào, nhưng Liên thấy trong nồi cũng chẳng còn bao nhiêu. Có lẽ những vị khách bất ngờ như cô đã được chủ nhà nhường bớt phần ăn của họ. Một chén lót dạ đã là quý, chẳng thể đòi hỏi gì hơn.
Cô đưa mắt nhìn quanh: trên gác bếp treo lủng lẳng những trái bắp khô, đồ đạc trong nhà đơn sơ, chỉ vài vật dụng thiết yếu. Bữa ăn cũng chỉ có một nồi canh đạm bạc - xem ra gia cảnh chẳng mấy khá giả.
Người phụ nữ lân la hỏi chuyện:
"Em là người quen của cô Xuân hay chú Diệu?"
"Dạ không, em đi lạc rồi vô tình gặp hai người họ thôi." Liên thật thà đáp.
Người phụ nữ khẽ thở dài:
"Thời buổi rối ren, sống yên thân cũng chẳng dễ gì. Nhiều người phải rời xứ mà tìm đường sinh sống. Nhìn em chẳng giống người buôn bán, hay là... lên đây theo nghĩa quân?"
"Dạ không phải, em không tham gia gì cả."
Đêm trên cao nguyên thanh vắng, bên ngoài gió vẫn rì rào, trong gian nhà bếp lửa nồng đượm thỉnh thoảng phát ra tiếng củi cháy lách tách, âm thanh hoà quyện như khúc nhạc thoang thoảng bên tai.
Người phụ nữ nhấc nồi canh xuống, một tay đặt ấm nước lên bếp, một tay cho thêm củi vào lò:
"Vậy à? Ta tưởng hai người dẫn em theo đến chỗ tụ quân."
"Nghĩa quân là tổ chức gì vậy chị?" Liên tò mò hỏi.
Thời phong kiến, "nghĩa quân" thường chỉ những đội quân vì tự do, chính nghĩa mà nổi lên chống kẻ tàn bạo, kẻ xâm lăng. Còn trong thời bình như bây giờ, ngoài Quân đội nhân dân, Liên chỉ từng nghe đến vài nhóm tự phát như "hiệp sĩ đường phố". Nghĩ đến đó, cô chợt đoán, có lẽ "nghĩa quân" ở đây cũng là một tổ chức tương tự.
Ánh lửa vàng sẫm hắt vào một bên mặt người phụ nữ, gương mặt hốc hác, nước da hơi sạm, trong đôi mắt chứa đựng nhiều thăng trầm.
"Chừng một năm trở lại, ông Tơ Mo Bok[23] hay lên vùng thượng này buôn trầu, đổi lấy sản vật đem về xuôi. Thấy bà con đói nghèo, ông động lòng, rủ họ lên đây khai khẩn đất hoang mà dựng nhà, trồng trọt kiếm ăn. Dần dần người theo càng đông, ông cùng vài người thân tín lập nên nghĩa quân, ngày đêm rèn luyện võ nghệ. Trời cao thương lòng chính nghĩa mà ban cho ông một thanh kiếm báu, thay trời hành đạo."
Nghe nhắc đến "trời ban kiếm", Liên lập tức liên tưởng tới một truyền thuyết xưa: thuở Lê Thái Tổ dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn chống giặc Minh, buổi đầu lực lượng còn yếu, liên tiếp thất bại. Tương truyền, Đức Long Quân đã ban cho vua một thanh bảo kiếm, trên lưỡi khắc hai chữ Thuận Thiên (順天). Từ đó, nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi, cuối cùng đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Không rõ câu chuyện ấy có chút liên quan nào tới lời người phụ nữ vừa nói hay không.
"Trời ban kiếm báu? Là truyền thuyết ở đây hả chị?"
Người phụ nữ lắc đầu:
"Chuyện ấy không phải truyền thuyết, xảy ra cách đây chưa đầy nửa năm. Có người kể, hôm ấy ông đi ngang chân núi thì vách đá tự nhiên nứt ra. Từ trong khe phát ra ánh sáng lạ. Họ tìm đến thì thấy một thanh kiếm, sắc bén, sáng rực, chỉ cần vung nhẹ đã khiến người chung quanh run sợ. Ông Tơ Mo Bok thấy là điềm trời bèn lập đàn cầu đảo ba ngày ba đêm. Đến nửa đêm thứ ba, một luồng lửa từ dưới núi phóng thẳng lên trời, sáng lòa cả vùng. Sáng ra, người ta lại thấy một quả ấn bằng vàng nằm trong đống đá vỡ. Ai cũng tin đó là kiếm và ấn trời ban, như xưa vua Lê được Thuận Thiên Kiếm đánh giặc cứu nước."
Liên lắng nghe chăm chú, câu chuyện li kì chẳng khác nào bước ra từ tiểu thuyết: Một thanh kiếm mang sức mạnh phi thường xuất hiện cùng những sự kiện kì bí; một người được tôn là "kẻ được trời chọn" - nghĩ thế nào cũng thấy bất thường. Trong lòng cô dấy lên nghi ngờ: giả như có kẻ dựa vào truyền thuyết xưa mà dựng nên tình huống ấy để mị dân vì mục đích riêng, thì cần phải nhắc mọi người nhìn nhận thấu đáo hơn.
"Em nghĩ chuyện truyền miệng qua nhiều người dễ bị sai lệch. Có khi chỉ là ai đó đánh rơi kiếm, rồi vướng vào vách đá cũng nên. Kiếm vốn do thợ rèn làm ra, chứ sao tự nhiên mà có được. Em nghe chị kể ông Tơ Mo Bok giúp người khốn khó, điều đó rất đáng quý. Nhưng... mọi người có bao giờ nghĩ, biết đâu ông ấy còn có dụng ý khác."
Người phụ nữ mở to mắt nhìn Liên với sự thảng thốt, không nói nên lời.
"Chúa công hành sự xưa nay, trên có trời soi xét, dưới được lòng người. Há để kẻ tầm thường như cô đem lời hồ nghi?" Xuân từ ngoài cửa bước vào, ánh mắt ánh lên tia lửa giận: "Người mang tâm địa đáng ngờ chính là cô! Cô nói vậy là có ý gì?"
"Chúa công" là xưng hô bề tôi gọi chủ của mình thời phong kiến, Liên không hiểu sao đến bây giờ vẫn còn người dùng. Hóa ra, người tên Tơ Mo Bok vừa được nhắc đến chính là ông chủ của hai người này.
Nghĩ sao nói vậy, đâu có bịa đặt gì, Liên thẳng thắn đáp:
"Tôi không có ý gì đâu, chỉ thuận miệng hỏi thôi."
Thấy Xuân quay trở vô nhà một mình, người phụ nữ ngẩng mặt lên hỏi:
"Chú Diệu đi rồi à? Bên đó có chuyện gì sao?"
"Vâng! Cũng có chút việc."
Xuân tiến lại gần, những thanh tre lót sàn cọ xát vào nhau kêu kẽo kẹt theo từng bước chân.
Xuân ngồi bệt xuống bên cạnh bếp lửa, đối diện Liên:
"Cô gái này lai lịch chẳng rõ, lại đột nhiên xuất hiện gần đây. Ban đầu bọn em định đưa về trại tra hỏi. Nhưng sau khi cân nhắc, anh Diệu bảo để nhờ anh Bình tới xem xét, tránh rùm beng. Tối nay đành làm phiền chị vậy."
Người phụ nữ mỉm cười:
"Phiền gì đâu. Người trong nhà với nhau, có chi mà khách sáo. Sẵn có ấm nước đây, để ta pha ấm trà nóng cho mọi người."
Xuân khẽ cúi đầu:
"Vâng! Em cảm ơn chị!"
Người phụ nữ thu dọn chén bát, đứng dậy đem xuống sau nhà. Liên lưỡng lự: đã ăn nhờ mà lại để người ta dọn thì thật bất lịch sự, nhưng là khách lạ, đi lại trong nhà e bị hiểu lầm. Đắn đo một lúc, cô đành ngồi yên, quay sang nói lời cảm ơn:
"Em cảm ơn chị đã cho em ăn bữa này."
"Không có gì." Người phụ nữ mỉm cười đáp, rồi xoay người tiếp tục dọn dẹp.
Bên bếp lửa đỏ rực, Xuân ngồi lặng im đặt tay trên đùi, phản chiếu trong đôi mắt những đốm lửa lập loè như đang nhảy múa. Gương mặt thiếu nữ tuổi đôi mươi tràn đầy xuân sắc, rực rỡ như hoa mộc miên[24] đỏ thắm giữa núi rừng cao nguyên bạt ngàn. Hàng chân mày lá liễu mảnh mai, đôi mắt hoa đào mang vẻ đẹp kiều diễm đối lập hoàn toàn với ý chí toát ra từ bên trong ánh mắt, mạnh mẽ và kiên định.
Liên ngồi bất động, tâm trí quay vòng vòng như đèn kéo quân, cố gắng lí giải hết điều kì lạ này đến điều khác. Nghĩ mãi rồi cũng trở về điểm xuất phát. Hai người kia tuy dùng vũ lực ép cô đi theo, song chưa từng có ý làm cô bị thương. Liên than đói thì được dẫn tới đây ăn nhờ - đối đãi với một người xa lạ như vậy cũng xem là tử tế. Qua cách giao đấu sòng phẳng, cô đánh giá họ là người ngay thẳng, không phải phường gian trá.
Nghe cuộc trò chuyện giữa cô gái và người phụ nữ chủ nhà, Liên biết họ đang chờ một người khác đến điều tra thông tin về mình. Sự xuất hiện bất ngờ của cô ở vùng hẻo lánh này rõ ràng đã khiến họ nảy sinh nghi ngờ. Liên bạo dạn lên tiếng phá vỡ bầu không khí yên lặng:
"Mấy người là ai? Nếu không thuộc cơ quan công quyền thì tôi không có nghĩa vụ khai báo. Tôi không làm gì sai, không ai có quyền bắt giữ tôi lại."
Xuân lặng thinh, như đang mải đuổi theo một ý nghĩ nào đó.
"Này, cô có nghe tôi nói không?" Liên cố ý nói to hơn để kéo sự chú ý.
"Cô muốn nói gì?" Xuân quay đầu từ bếp lửa sang, ánh mắt vẫn ẩn chứa nghi ngờ và cảnh giác.
Hình như họ đang hiểu lầm điều gì đó về cô - cụ thể là gì thì Liên chưa rõ, nhưng có lẽ liên quan đến mấy món đồ tìm thấy trong chiếc túi vải. Nghĩ bụng, thay vì cứ đoán già đoán non, chi bằng hỏi thẳng:
"Cái túi đó không phải của tôi. Có hỏi mấy lần thì tôi cũng chỉ nói vậy. Giữ tôi lại để làm gì chứ?"
"Còn giả ngây đến bao giờ? Tấm địa đồ[25] kia từ đâu mà cô có?"
"Địa đồ? Ý cô là... bản đồ sao?" Liên ngơ ngác, không hiểu cô gái đang nói về cái gì. Trong trí nhớ, túi vải chỉ có vài đồng xu và một tờ giấy cũ ngả màu. Không lẽ cái hình vẽ nguệch ngoạc trên tờ giấy đó lại là bản đồ?
"Tôi không biết gì hết. Nếu là tờ giấy trong túi, mấy người cứ lấy. Tôi không cần. Làm ơn, cho tôi đi!"
Xuân thở hắt ra, giọng lạnh băng:
"Vẫn ngoan cố như vậy... Cho đến khi cô khai ra kẻ đã đưa tấm địa đồ, đừng mong rời khỏi đây."
Liên muốn cạn lời. Đúng là người ta chỉ tin điều mình muốn tin, chỉ nghe điều mình muốn nghe.
"Tôi nói hết rồi. Tôi còn chẳng biết nó từ đâu mà có. Là các người không chịu tin thôi..."
Lời còn chưa dứt, Xuân bất ngờ rút con dao găm giắt bên hông, ánh thép loé lên trong ánh lửa bập bùng. Lưỡi dao xé gió lao thẳng về phía Liên đang ngồi. Cô không kịp phản ứng, toàn thân như bị ghim chặt vào chỗ, trơ mắt nhìn vật sáng bạc ấy đang phóng tới. Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Nhịp tim đập loạn, ùa lên tận cổ họng, hơi thở như bị chặn lại.
Phập! Tiếng kim loại ghim vào gỗ vang lên ngay bên tai, sắc lạnh đến mức khiến Liên dựng cả tóc gáy. Cùng lúc ấy, Xuân đứng bật dậy, sải bước tiến lại gần, bước chân nặng và dồn dập như đè nén không khí trong căn nhà nhỏ.
"Cô... định làm gì?"
Liên hốt hoảng, tay chân run rẩy. Không lẽ cô gái định giết mình? Không... nếu muốn, ban nãy cô ta đã làm rồi.
Xuân lướt ngang qua, đi thẳng ra phía sau lưng Liên. Cô ngoái đầu nhìn theo trong sự ngỡ ngàng - trên bức vách, con dao đang ghim chặt một sinh vật đỏ sẫm, cỡ ngón tay cái, tám chân dài ngắn khác nhau, hình thù gớm ghiếc. Liên thở phào, thì ra mục tiêu là nó chứ không phải mình. Xuân rút con dao ra, ném thẳng con vật vào bếp than; ngọn lửa lập tức bùng lên nuốt trọn, thiêu rụi thành tro.
"Nó... là con gì vậy?" Liên run giọng hỏi. Cả đời sống giữa phố thị, từ nhỏ đến lớn cô chưa từng thấy loài côn trùng nào quái dị như thế.
"Nhện đỏ." Xuân đáp ngắn, ánh mắt vẫn dán vào lưỡi dao trên tay. "Không có độc chết người, nhưng nếu cắn thì vết thương sẽ lở loét, khó mà chữa."
Nghe vậy, một tia nhận thức mới nhen lên trong lòng Liên. Hành động vừa rồi... có lẽ không xuất phát từ ác ý. Ít nhất, cô gái này đã cứu cô khỏi một vết thương đáng sợ.
"Cảm ơn... đã giúp tôi."
"Tiện tay thôi, khỏi cảm ơn." Xuân dùng miếng vải lau sạch vết bẩn dính trên con dao, cài nó vào thắt lưng như cũ. Cô khẽ nheo mắt, giọng trầm xuống, xen chút nghi hoặc: "Tốt hơn cô nên biết điều... Chuyện về nghĩa quân, cô nghe được những gì?"
Liên không ngờ chỉ dăm ba câu trò chuyện vu vơ khi nãy lại khiến cô gái này để tâm đến thế. Nếu tổ chức kia thật sự minh bạch thì đâu cần phải e ngại vài lời bàn tán. Hay là... phía sau những việc "giúp đỡ" ấy còn có điều gì khuất tất?
"Chỉ là... chị gái kia kể thì tôi mới biết ở đây có một nhóm thiện nguyện giúp đỡ người khó khăn. Tôi chỉ thắc mắc, vì sao lại có nhiều người nghèo, không nhà cửa đến vậy? Mất mùa, thiên tai... hay dịch bệnh?"
Xuân thong thả trở lại chỗ ngồi, tiện tay cho thêm vài cành củi khô vào lò, giọng đều đều mà vẫn ẩn chút sắc lạnh:
"Cô ở Quy Nhơn, lẽ nào lại chẳng thấy những cảnh ấy nhiều hơn chúng tôi?"
Dải đất miền Trung từ xưa vốn khắc nghiệt, cuộc sống người dân luôn chồng chất nhọc nhằn. Bão lũ gần như năm nào cũng có, khiến việc mưu sinh càng thêm cơ cực. Vài năm gần đây, du lịch phát triển góp phần cải thiện đời sống, nhưng phần lớn nguồn thu rơi vào tay những chủ đầu tư lớn; một phần nhỏ lọt xuống các hộ buôn bán dịch vụ, còn lại những người ít vốn vẫn phải bám biển, sống qua ngày.
"Tôi không phải người ở Quy Nhơn." Liên đáp. "Tôi đến đó vì công việc. Đi qua vài nơi, thấy cơ sở hạ tầng đang phát triển, tôi không nghĩ vẫn còn khu vực nghèo đói như thế này."
Giọng Xuân mỗi lúc một trầm, ẩn chứa sức nặng vô hình. Từng chữ thốt ra như thể đang kìm nén cơn giận:
"Bọn bản đường quan[27] đặt ra đủ thứ thuế má, vét cạn của dân để đút túi riêng. Tên nào tên nấy sống phè phỡn, nhà cao cửa rộng. Địa chủ[28] bắt tay với quan lại[29], ngang nhiên chiếm đất, ngồi hưởng trên lưng người nghèo. Người có nhà hóa kẻ chẳng chốn nương thân. Kẻ làm thuê chẳng gánh nổi sưu cao thuế nặng thì phải bỏ xứ lưu vong. Đi đâu cũng thấy cảnh người lang bạt, đầu đường xó chợ."
Liên khẽ chau mày. Theo những gì cô biết, thuế ở Việt Nam hiện tại đều do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định bằng luật và pháp lệnh, được thu bởi cơ quan quản lí thuế. Chưa từng nghe có chức vụ nào gọi là "bản đường quan". Hơn nữa, cách Xuân nói "quan lại", "địa chủ" thay vì "quan chức", "chủ đất", cộng thêm trang phục cổ phong của mọi người nơi đây, càng khiến cô cảm giác... lạc vào một thế giới khác. Họ dường như không biết tới những từ ngữ của thời hiện đại.
Một ý nghĩ vừa lóe lên, Liên bỗng thấy tim mình đập nhanh.
"Cô cho tôi hỏi... hiện tại là... năm nào?"
Đôi bàn tay cô gái đang bẻ nhành cây khô khựng lại đôi chút:
"Năm Tân Mão..." Xuân vốn định nói gì nữa đột nhiên ngừng giữa chừng, nghiêng mặt nhìn qua chỗ Liên: "Cô hỏi chuyện này làm gì?"
"Không, không có gì!"
May là câu trả lời không phải một niên hiệu nào đó, nếu không Liên thật sự sẽ nghĩ mình đã lạc đến một không gian và thời gian khác. Liên thở phào nhẹ nhõm trong lòng, thầm tự giễu bản thân: Chắc do cô đọc tiểu thuyết quá nhiều bị lậm rồi hoang tưởng.
Xuân khẽ nhếch miệng thở hắt ra một hơi:
"Có vẻ cô sống trong cảnh trướng rủ màn che[30], cơm bưng nước rót, ngày tháng trôi qua mà chẳng biết bên ngoài ra sao."
Giờ trong tay không có điện thoại, chỗ này là đâu, bây giờ là mấy giờ Liên cũng chẳng biết, huống gì là tình hình xung quanh. Liên thử góp nhặt, liên kết những điều Xuân nói lại với nhau: tham ô tài sản, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi... là hành vi tham nhũng[31]. Có lẽ vấn đề nằm ở đây.
"Tôi là người nơi khác, không hiểu hết tình hình ở đây. Nhưng nếu đúng như cô nói, có dấu hiệu tham nhũng, bất công, thì ai đó nên đứng lên chứ. Mỗi người có quyền phản ánh, làm đơn tố giác gửi cơ quan điều tra, viện Kiểm sát Nhân dân. Tại sao không ai lên tiếng?"
Xuân bẻ gãy thanh củi trên tay làm đôi liếc nhìn Liên không chớp mắt, khoé mi hơi nheo lại cùng ánh mắt đầy xét đoán: Thân gái một mình lặn lội đến nơi rừng núi xa xôi hiểm trở, không phải vì tìm kế sinh nhai hay chạy loạn thì hẳn là có chủ đích. Khi thì nói những từ không ai hiểu, khi thì nói năng ngây ngô như kẻ chưa trải sự đời, khó mà đoán được tâm tư.
Xuân bất chợt bật cười ha hả:
"Đúng là suy nghĩ trẻ con. Cô thực sự nghĩ rằng Cóc có thể kiện trời[32] hay sao?"
"Tại sao lại không?" Liên mở to mắt nhìn cô gái, nói dõng dạc: "Đoàn kết chính là sức mạnh. Mọi người đồng lòng, lần này không được thì tiếp tục lần sau gửi lên cấp cao hơn. Chỉ cần không từ bỏ, tôi tin sẽ có ngày đòi lại được quyền lợi chính đáng cho mình."
Lời vừa dứt, trong gian nhà im phăng phắc. Ánh mắt Xuân vẫn dán chặt vào Liên, như muốn dò xem bao nhiêu phần trong câu nói kia là niềm tin, bao nhiêu phần là ảo tưởng.
Bất chợt một giọng nói từ ngoài vọng vào, trầm ấm nhưng đầy châm biếm:
"Hay cho câu "Đoàn kết là sức mạnh". Vậy cô có từng nghe câu "Nhà dột từ nóc dột xuống[33]" chưa?"
Liên ngoái đầu nhìn ra cửa, thấy hai người đang tiến lại gần. Một là Diệu – cô đã gặp lúc nãy. Người kia là chàng trai chừng mười tám, đôi mươi. Dáng cao vững chãi, vai rộng, nước da ngăm khỏe khoắn. Anh khoác áo giao lĩnh[34] xanh thẫm, thắt đai lưng đen, bước đi ung dung mà dứt khoát.
"Chào chị, muộn thế này mà đến làm phiền, mong chị lượng thứ."
Người phụ nữ chủ nhà mỉm cười, bưng khay trà đặt xuống bên bếp lửa:
"Chú Bình đến rồi à? Có chi đâu, mời các chú uống chén trà cho ấm bụng."
"Vâng!"
Hai người bước vào bên trong gian nhà chính, Quang Diệu đi trước, chàng thanh niên vào sau. Ấm nước trên bếp sôi sùng sục, Xuân nhanh nhẹn lấy bớt củi ra vùi vào tro dụi tắt.
Người phụ nữ nhấc ấm, rót nước sôi vào ấm trà, tráng rồi đổ bỏ, lại rót thêm lần nữa.
"Mọi người thong thả nói chuyện, ta còn chút việc dang dở, không tiếp chuyện lâu được."
Châm nước xong, người phụ nữ đứng dậy đi ra phía sau, chỉ còn Liên và ba người kia ở lại. Xuân nhích người dời chỗ ngồi sang bên cạnh Liên, hai người kia lần lượt ngồi xuống.
Ngồi phía đối diện Liên lúc này là chàng thanh niên trẻ tuổi. Ánh lửa bập bùng hắt lên gương mặt chữ điền, ngũ quan hài hòa toát ra vẻ mạnh mẽ. Trán rộng, mũi cao, đôi lông mày rậm như vẽ; hai gò má lấm tấm chấm đỏ li ti, mái tóc xoăn được quấn gọn thành búi phía sau, phảng phất nét phong trần của kẻ từng dãi gió dầm sương.
Liên chăm chú quan sát cậu thiếu niên, cậu ta đồng thời nhìn về phía Liên bằng đôi mắt sâu thẳm như màn đêm đen tĩnh mịch, vừa an tĩnh lại vừa mơ hồ không thể nhìn thấu. Dù là nghi ngờ, hiếu kỳ hay dò xét... đều không biểu lộ cảm xúc qua nét mặt và ánh mắt, Liên chỉ cảm nhận được một sự bình thản đến kì lạ.
Thông thường, nhìn chằm chằm vào mặt người lạ không phải phép lịch sự, nhưng ở chàng trai này lại có thứ khí chất khiến Liên bị hút vào, như rơi vào vòng xoáy của những suy nghĩ và phân tích bất tận.
Sau một hồi thinh lặng, Quang Bình mở lời, khoé môi hơi cong nhẹ lên một nụ cười xã giao:
"Trên mặt tôi có dính gì chăng?" Giọng điệu trong lời nói nhẹ nhàng mà không tỏ vẻ khó chịu, xua tan bầu không khí tĩnh lặng.
"Mắt tôi vào buổi tối không được tốt, nhìn không rõ."
Thực ra, thị lực Liên hoàn toàn bình thường. Cô hiểu câu nói kia là một lời nhắc khéo, nên mới lấy cớ để trả lời qua loa.
Quang Bình đặt cái túi vải ban nãy trước mặt, đẩy nhẹ về phía Liên:
"Tôi đã nghe anh Diệu nói. Chúng tôi sẽ giữ tấm địa đồ, còn lại trả cho cô." Tốc độ nói không nhanh không chậm, giọng nói mang lại cảm giác chín chắn và chững chạc so với độ tuổi thiếu niên.
Liên nhìn cái túi vải lắc đầu ngao ngán, mọi rắc rối từ đây mà ra:
"Dù sao cũng không phải đồ của tôi. Muốn lấy thì cứ lấy. Mấy đồng tiền cổ này chỉ đáng với người sưu tầm, còn người bình thường thì chẳng giá trị gì."
Quang Bình nhướng mắt lên nhìn Liên, trong đôi mắt thoáng qua chút dao động, không rõ là ngạc nhiên hay thăm dò, khoé môi nhích lên một nụ cười rất khẽ. Ẩn sau nụ cười có vẻ thân thiện đó không ai biết anh đang suy tính điều gì.
"Vậy tôi không khách sáo!" Anh giắt túi vải vào đai lưng, rồi rút từ tay áo ra một mảnh giấy, đưa về phía Liên:
"Đây là sơ đồ tôi vẽ lại. Đường tới Plơi Kơdưr Chư Hdrông. Cô cứ mang theo, biết đâu có lúc cần."
Liên nhận tờ giấy, xoay ngang xoay dọc. Mấy hình vẽ mỏm đá, bụi cây, con đường ngoằn ngoèo; bên cạnh toàn chữ giống chữ Hán, không lấy một chữ Quốc Ngữ. Thế này thì đi kiểu gì? Chẳng lẽ ở đây không ai dùng chữ Việt?
"Cảm ơn cậu có lòng giúp đỡ, tiếc là tôi đọc không hiểu. Tôi sẽ đem theo để hỏi dọc đường." Liên xếp gọn tờ giấy loay hoay tìm túi áo hay túi quần để nhét vào mà không có, bèn cầm tạm trong tay: "Vậy giờ... tôi đi được chưa?"
"Đường rừng không dễ đi, ngay cả với người địa phương. Cô nên ở lại đây một đêm, sáng mai đi tiếp vẫn hơn. Tất nhiên... nếu cô muốn mạo hiểm thì cứ việc."
Quang Bình cầm ấm trà, đặt ngón cái trên nắp, bốn ngón còn lại giữ chặt quai ấm nhấc tay từ từ rót trà vào từng chén. Từng dòng nước ấm màu ngà chảy vào chén, tỏa ra mùi hương nhè nhẹ.
"Mời mọi người!" Anh nhấc khay trà đưa về phía phía Quang Diệu và Xuân trước.
"Cảm ơn chú!"
"Cảm ơn anh!"
Sau đó anh đưa khay trà đến trước mặt Liên:
"Mời cô!" Ánh mắt anh dừng lại lâu hơn mức cần thiết, lặng lẽ lướt qua từng thay đổi nhỏ nhất trên gương mặt cô.
"Cảm ơn!"
Trên khay còn lại hai chén, Liên lịch sự nhấc chén trà gần phía mình. Nước trà trong chén màu hơi ngà, hương thơm thoang thoảng. Liên khẽ liếc nhìn hai người kia thấy họ đã uống, cô mới hơi kề môi vào chén giả vờ nhấp một ngụm nhưng không hề uống giọt nào.
Liên chậm rãi đặt chén trà xuống sàn nhà:
"Để một người xa lạ như tôi ở lại, cậu không nghi ngại gì sao?"
Khóe môi Quang Bình hơi cong, giọng pha nửa thật nửa đùa:
"Chẳng lẽ cô sẽ làm hại chúng tôi?"
"Cậu còn chưa biết tôi là ai, từ đâu đến, là người như thế nào... Cho tôi ở lại đây, có phải cậu dễ tin người quá không?"
"Tôi đâu nói không nghi ngờ." Quang Bình xoay nhẹ chén trà trong tay: "Nhưng để cô lang thang ngoài kia trong đêm thì... không có tình người."
Liên nhìn ra bên ngoài, trời tối đen mịt mù không chút ánh sáng, gió lùa tán cây xào xạc, thỉnh thoảng có tiếng kêu "éc éc" nghe sởn gai ốc. Nơi đây khỉ ho cò gáy, lấy đâu ra nhà nghỉ hay khách sạn; mà dù có, cô không tiền bạc, không giấy tờ... cũng chẳng thể làm gì.
"Thật sự giờ tôi cũng chẳng biết đi đâu về đâu, mọi người cho ở lại tôi rất cảm kích. Tôi không có gì để cảm ơn, sau này có cơ hội nhất định sẽ báo đáp."
"Không cần đâu." Khóe môi Quang Bình khẽ nhếch, tay đưa xuống đai lưng: "Chúng tôi... đã nhận phần đáp lại rồi."
Anh rút chiếc túi vải từng thuộc về Liên, đặt nhẹ vào tay Xuân:
"Cô Xuân, phiền cô nói với chị Ya Ly sắp xếp chỗ ngủ cho hai người. Tôi với anh Diệu sẽ ở ngoài này. Tiện thể... cô đưa cái này cho chị ấy. Lấy cớ gì thì tùy cô."
Xuân liếc qua chiếc túi, ánh mắt lóe lên rồi nhanh chóng trở lại bình thản. Cô uống thêm một ngụm trà, đặt chén vào khay, nhổm người đứng dậy:
"Được, tôi biết rồi."
___
[23]Tơ Mo Bok: theo tiếng Jrai nghĩa là người Trời, vua Trời, là tên gọi người địa phương dành cho một người có tầm ảnh hưởng với họ. Danh tính người này sẽ được tiết lộ ở những chương sau.
[24] Hoa mộc miên: Còn gọi là hoa gạo, hồng miên hay hoa Pơ-lang (theo cách gọi của người Tây Nguyên), là loài hoa tượng trưng cho tình yêu thủy chung, son sắt của người con gái dành cho người mình yêu.
[25]Địa đồ: Bản đồ hay hoạ đồ, bức vẽ hình thể đất một vùng hay nguyên mặt đất.
[26] Nhện đỏ (nhện lạc đà): Ở Việt Nam, chỉ ghi nhận một loài duy nhất là Dinorhax rostrumpsittaci, phân bố tại Khánh Hòa, Lâm Đồng, Đồng Nai. Loài này hoạt động về đêm để săn mồi. Độc tính chưa được xác định rõ, nhưng đã có một số trường hợp nhiễm trùng sau khi bị cắn.
[27]Bản đường quan: ngạch quan chuyên thu thuế có hệ thống từ trung ương đến địa phương do chúa Nguyễn đặt ra.
[28] Địa chủ (地主), hay điền chủ (田主): Chỉ người sở hữu nhiều ruộng đất thời phong kiến, không trực tiếp lao động mà sống bằng cách thu địa tô từ người canh tác. Trong bối cảnh hiện đại, thuật ngữ tương đương thường là "chủ đất" hoặc "chủ sử dụng đất".
[29]Quan lại: là những người trong bộ máy nhà nước phong kiến và bộ máy nhà nước ở Việt Nam thời thuộc Pháp từ cấp huyện trở lên, gồm người điều hành là "Quan" và những người thừa hành là "Lại".
[30] Trướng rủ màn che: Chỉ lối sống kín đáo, thanh tao, không phô trương của con gái nhà quyền quý xưa. "Trướng" là màn thêu trang trí sang trọng, thường dùng trong gia đình thượng lưu thời phong kiến, gợi hình ảnh sống êm đềm, đài các.
[31]Tham nhũng: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
[32] Cóc kiện trời: Truyện cổ tích Việt Nam giải thích hiện tượng tự nhiên "cóc nghiến răng thì trời mưa". Đồng thời, câu chuyện ca ngợi tinh thần đoàn kết, chính nghĩa và lòng dũng cảm không sợ cường quyền.
[33]Dột từ nóc dột xuống: (nghĩa bóng) hư hỏng, thoái hoá từ trên xuống dưới, từ người có quyền lực, địa vị cao nhất xuống những người thấp hơn.
[34] Áo giao lĩnh (交領): Là loại áo có cổ bắt chéo (giao nhau), âm Nôm gọi là áo tràng bạt (長拔) – một biến thể của áo trực lĩnh. Cổ áo được tạo bằng cách ghép vạt cả, buộc chéo từ trái sang phải. Loại áo này phổ biến trong xã hội phong kiến, dùng cả trong sinh hoạt hằng ngày lẫn làm lễ phục hoặc tế phục mặc phủ ngoài.
Áo giao lĩnh xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm, khoảng thời Đông Hán, sau khi Mã Viện đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Trước Bắc thuộc, người Việt mặc áo gài về bên trái; sau đó tiếp thu ảnh hưởng Trung Hoa, chuyển sang gài áo bên phải.
Bình luận
Chưa có bình luận