Trời Ba Ngói hôm đó oi như nung, gió từ sông thổi vào cũng chẳng làm dịu được cái hầm hập trong không khí. Đêm xuống, cả làng như ngồi trên chảo lửa. Người thì thấp thỏm lo sợ, kẻ lại muốn xách dao, xách rựa ra đồng đứng canh, phòng lỡ có chuyện quỷ quái hiện về.
Sau buổi thú tội kinh hoàng của ông Hội đồng, dân làng bàn tán không ngớt. Mấy bà ngồi ngoài bến nước chặc lưỡi:
– Ờ… vậy ra bấy lâu nay oan hồn quậy phá cũng là do ông Hội đồng Khải gieo nghiệp ác…
– Ừ, mà tao nghe đâu có cả thầy Cả Hữu nữa, bưng bít chớ chẳng chịu lên tiếng…
– Thiệt, rồi mấy ổng ăn nói sao với trời đất đây hông biết!
Tin tức lan nhanh, chẳng mấy chốc ai cũng biết chuyện hiến sinh trẻ con hồi xưa. Nỗi căm phẫn dồn lại, người ta vừa giận vừa sợ. Giận vì mình bị lừa gạt bấy lâu, sợ vì oan hồn chưa yên, chẳng biết còn đòi mạng ai nữa.
Tôi tuy chứng kiến tất tần tật, nhưng có lẽ gia tiên tiền tổ nhà tôi phù hộ, nên dù rất nhiều chuyện kinh khủng xảy ra trước mắt nhưng mạng vẫn còn y nguyên.
Đêm ấy, ở bến ghe đầu làng, chỗ có cây bần già rễ chằng chịt, người ta nghe tiếng quạ kêu liên hồi. Bến ghe đó vốn ban ngày là chỗ mấy anh trai làng tụ tập, kéo lưới, phơi cá, nhưng ban đêm hiếm ai dám lai vãng. Ấy vậy mà hôm nay, một nhóm trai trẻ tụ tập ở đó. Trong đám có thằng Nhớt, thằng Hòa “đen”, với Lợi “bánh bò”. Ba đứa nổi tiếng quậy phá, nghe chuyện ma quỷ thì khoái chí chớ không biết sợ.
– Ê tụi bây, nghe nói đêm nào oan hồn cũng đi ngang bến ghe này nè, bữa nay mình rình coi thử thiệt hông. – Thằng Nhớt vừa nói vừa rút chai rượu đế giấu trong áo ra.
Thằng Hòa cười khùng khục:
– Ờ, có ma thiệt càng hay, mình nhậu với nó, coi nó dám hù được tao hông.
Thằng Lợi lại rụt rè hơn, nhưng không dám về vì sợ bị chọc nhát, nên cũng bặm gan ngồi lại.
Chúng trải chiếu, ngồi nhậu dưới gốc bần, ngọn đèn chai lập lòe thắp sáng một khoảng nhỏ. Trên sông, nước chảy ì oạp, nghe rờn rợn.
Khoảng canh hai, giữa lúc men rượu đã ngấm, cả ba đứa đang cười hả hê thì bỗng một mùi tanh nồng xộc lên. Ban đầu chỉ lợn cợn như mùi cá ươn, nhưng càng lúc càng hắc, đến độ thằng Lợi phải che mũi.
– Ủa… bây ngửi thấy mùi gì kỳ hông? – nó run run hỏi.
Chưa kịp ai trả lời thì từ dưới mép nước, có tiếng lõm bõm như ai đang bước. Đèn chai bỗng phụt tắt, chỉ còn ánh trăng lấp loáng. Thằng Nhớt chồm dậy, chửi lớn:
– Đứa nào giỡn mặt vậy?
Ngay khoảnh khắc đó, một bóng người lù lù hiện ra từ dưới nước, áo quần sũng nước, tóc dài bết lại, mặt trắng bệch, đôi mắt trừng trừng như còn căm hận. Cả ba thằng đờ người, chai rượu trên tay rơi cái choang.
Bóng người đó không nói, chỉ từ từ tiến lại, bàn tay xương xẩu với mười ngón dài ngoằng vươn ra. Nước từ người nó nhỏ tong tong xuống đất, nhưng kỳ lạ thay, chỗ nào rơi xuống cũng bốc khói mờ mịt.
Thằng Hòa gan lì nhất, bặm môi chửi:
– Ma thì tao cũng chém!
Nó vung dao rựa bổ xuống. Nhưng lưỡi dao vừa chạm vào thân ảnh ấy thì tan biến như chém vào hư không. Rồi một tiếng ẹc khô khốc vang lên, thằng Hòa bị bàn tay kia bóp cổ, nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Mắt nó trợn ngược, chân tay quơ quào vô vọng.
Thằng Lợi hoảng quá bỏ chạy, nhưng vừa quay đầu thì vướng phải rễ bần, té nhào xuống nước. Cái bóng kia lập tức nhào theo, chìm nghỉm. Nước sông dậy sóng, bọt sủi trắng xóa. Tiếng thằng Lợi la hét rồi tắt ngấm, chỉ còn tiếng ục ục như người bị dìm.
Còn lại mình thằng Nhớt, sợ đến nỗi tè ra quần, run rẩy bò lùi. Nó lắp bắp van xin:
– Th… tha cho con, con hổng dám nữa…
Bóng người kia quay đầu lại, gương mặt hiện rõ: đó là một đứa bé gái, mắt đen sâu hoắm, miệng rách dài tới tận mang tai. Nó trừng thằng Nhớt, rồi cười khanh khách, tiếng cười vang vọng như vọng từ dưới mồ.
Ngay lập tức, thằng Nhớt xỉu ngay tại chỗ.
Sáng hôm sau, dân làng phát hiện dưới gốc bần có một thằng nằm mê man, miệng lắp bắp “ma… ma…”. Kéo lên bờ thì đó chính là thằng Nhớt. Nó sốt cao, thân thể lạnh như đá, nhắc tới bến ghe là lăn đùng ra co giật.
Còn xác thằng Hòa, thằng Lợi thì không thấy đâu cả. Trên mặt nước chỉ nổi lềnh bềnh vài mảnh áo rách, dính bùn tanh nồng.
Tin lan khắp làng Ba Ngói. Người thì bảo oan hồn con nít đã lại đi bắt người , kẻ lại bảo bến ghe ấy thành đất dữ, ai bén mảng tới cũng chết.
Thầy Sâm nghe chuyện, chỉ lắc đầu:
– Máu trẻ con đổ xuống đất này chưa yên. không lo giải nhanh, thì cả làng chết sạch
Câu nói ấy làm ai nấy đều lạnh sống lưng.
Hôm sau dân làng thấy thầy Sâm lập đàn ngay trong đình, có không ít người đến xem, thầy Sâm cất giọng vang vọng:
Oán này khó giải, nhưng oan có đầu, nợ có chủ, ta chưởng môn đời này của Miên Hạ, luôn thực hành theo lời các đời tiền nhân dạy bảo, phàm làm việc phải dựa theo nhân quả, gieo nhân ắt gặt quả, thuận theo ý trời mới là chính nghĩa. Hôm nay ta sẽ không hàng phục ai hết, chỉ muốn siêu độ tất cả, ai có nợ máu thì đòi máu, ai mang nghiệp thì hôm nay trả nghiệp. Oan hồn đòi nợ máu xong phải đi đầu thai, bằng mà hại người vô can, ta quyết không tha.
Nói xong ông ngồi xuống, nhắm hờ mắt.
Đêm hôm đó là một đêm thảm thương của làng Ba Ngói. Rất nhiều chuyện kinh khủng xảy ra. Sáng hôm sau mọi người phát hiện, tất cả chức sắc trong làng đều chết cả, có nhà thì chết sạch, có nhà còn mấy đứa trẻ vô tội, có nhà dân chết chồng, có nhà chết vợ. Nhà thằng Cường thì chỉ còn mình nó, nhà tôi thì chẳng bị sao nhưng tối đó tôi nghe thấy tiếng hét cang vọng khắp xóm.
Tất cả những người còn sống sau đêm qua đều có mặt ngay đình, lúc này thầy sâm nói:
Từ nay Ba Ngói yên bình, tôi đã giải quyết tất cả, nhưng mọi người cũng đừng trách tôi. Thật sự việc ngoài khả năng của tôi. Nhiều oán hồn như vậy tôi cũng không thể diệt hết, lỡ một cái là cả làng chết hết chứ chẳng phải chơi. Những người có mặt ngay lúc này là những người đáng sống. Việc cưới cùng là tôi nhờ mọi người ở đây cùng tôi đi bốc tất cả hài cốt lên.
Tất cả những người lớn còn sống nghe theo thầy, theo theo dụng cụ ,tay cầm đuốc, tay xách nhang, có người còn ôm theo con gà, bó trái cây làm của cúng. Tiếng chân dép lẹp xẹp hòa với tiếng côn trùng rả rích. Không ai dám nói lớn, chỉ rì rầm như thì thầm với nhau: “Không biết bữa nay có yên không…”, “Trời ơi, miễn cho làng mình khỏi cảnh chết chóc nữa là mừng rồi…”.
Rất nhiều hài cốt theo lệnh của thầy, vì không thể xác định rõ của ai nên thầy bảo mọi người gom lại đốt cả rồi rải xuống sông, nhớ được ai thì lập mộ.
Giọng thầy oang oang cất lên:
– Đã xong. Nhưng nhớ lấy… đất này chỉ yên khi lòng người không độc ác. Gieo máu nữa, thì oán sẽ trở lại.
Sau hôm đó, lần đầu tiên sau nhiều tháng, bến sông Ba Ngói im lặng. Không còn tiếng khóc, không còn bóng người lờ mờ dưới nước. Chỉ còn tiếng dế gáy và mùi nhang khói phảng phất, như một vết sẹo còn âm ỉ nhưng đã được khép lại.
Sau đêm lễ trấn, cả làng Ba Ngói như trút được một gánh nặng ngàn cân. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa nhú khỏi rặng dừa, ánh sáng vàng rót xuống mặt sông lấp lánh, bà con lục tục kéo nhau ra bến ghe. Ai cũng nơm nớp sợ còn vong hồn lảng vảng, nhưng rồi chỉ thấy mặt nước phẳng lặng như gương, gió thổi lăn tăn từng vòng sóng nhỏ, trong veo như chưa từng nhuốm máu.
Những bà má từng khóc con, khóc cháu vì nạn đuối nước nay lặng lẽ thắp nhang, thả từng nhành bông cúc xuống sông. Cánh hoa vàng lững lờ trôi đi, không còn bị giật mạnh xuống như trước. Nhiều người òa khóc, nhưng không phải khóc vì sợ, mà khóc vì nhẹ nhõm, vì tin rằng con cháu mình đã được giải thoát, được siêu thoát.
Thầy Sâm ngồi trên bờ, mắt lim dim, mặt mệt nhoài nhưng bình thản. Ông chỉ dặn một câu:
– Đất nào cũng có hồn, sông nào cũng có vía. Đừng gieo oán, đừng hại nhau. Nếu không, các người lại chuốc họa mà thôi.
Nói rồi, ông đứng dậy, thu dọn đồ pháp sự, không nhận bạc, không nhận lễ. Ông chỉ lấy cây gươm gỗ đã nhuốm nhọ đen rồi cho vào tráp, gói kín. Trước khi rời đi, ông quay đầu nhìn mặt sông lần cuối, thở hắt như bỏ lại tất cả.
Đêm hôm ấy, lần đầu tiên cả làng ngủ ngon. Không còn tiếng oe oe vọng từ sông, không còn bóng người lạnh ngắt lấp ló ngoài bến. Chỉ có tiếng dế, tiếng ếch nhái, và mùi rạ khô thoang thoảng trong gió.
Vài tuần sau, ghe thương lái lại cập bến, kẻ mua người bán rộn ràng. Trẻ con nô đùa ven sông, tiếng cười giòn tan vang xa. Ai ai cũng bảo: “Trời thương cho làng mình yên rồi.”
Từ đó, bến sông Ba Ngói trở về đúng cái dáng vẻ vốn có của nó: một khúc sông hiền hòa, soi bóng dừa xanh, chở phù sa về nuôi đồng ruộng. Không còn ai nhắc nhiều đến những tháng ngày tang thương, nhưng trong lòng ai cũng khắc ghi. Đêm rằm, người ta vẫn bày mâm cúng, thả vài chiếc hoa đăng, để hương linh nào còn vương lại có đường mà đi.
Người già thì bảo nhau: “Thứ đáng sợ nhất không phải ma quỷ ngoài sông, mà là lòng người gian ác.” Lũ trẻ lớn lên nghe riết thành quen, coi như một bài học truyền đời.
Câu chuyện về oán hồn ở Ba Ngói dần lùi vào dĩ vãng. Làng Ba Ngói bình yên trở lại, như chưa từng trải qua một cơn ác mộng. Nhưng mỗi lần nhìn ánh trăng loang loáng trên mặt nước, ai cũng nhớ tới đêm lửa đỏ bập bùng, tiếng gào thét tan trong khói nhang, và dáng một ông thầy già đứng thẳng lưng giữa đình, chấm dứt hẳn một lời nguyền.
Và từ đó, Ba Ngói có một câu nói lưu truyền:
“Sông sâu còn dò được, lòng người ai dò cho thấu.”



Bình luận
Chưa có bình luận