Sau cái đêm con heo nái bụng nổ tung, cả làng Ba Ngói rúng động. Tin tức lan đi nhanh hơn cả ngọn gió chướng. Người ta đồn nhau: “Ma con nít nổi dậy rồi… tụi nhỏ bị chôn sống năm xưa giờ về đòi mạng đó!”
Ban ngày, bọn đàn bà không dám đi ra ruộng một mình. Đêm xuống, tiếng chó sủa liên hồi, có khi cả xóm chó tru một lượt, âm thanh kéo dài rợn cả óc. Người già thì lẩm bẩm tụng kinh, người trẻ thì đốt nhang khấn vái đủ kiểu. Nhưng càng khấn, càng lạ: khói nhang cứ tạt ngược vô mặt, hôi khét, khiến ai nấy rùng mình.
Hôm đó, trời sụp tối sớm hơn thường. Mây đen từ đâu kéo tới, che kín cả trăng. Bầy chim ác là kêu quang quác trên nóc đình, lông rụng trắng xóa cả sân. Không khí đặc quánh như có ai đang đè nén xuống.
Ông Hội Đồng – sau vụ đình làng – bị dân chửi rủa tới mức phải trốn trong nhà, không dám ló mặt ra. Con cháu nhà ổng, đứa thì bỏ đi, đứa thì bệnh triền miên. Đêm đó, ông ngồi trong buồng, uống rượu đến say mèm. Ngoài cửa sổ, gió thốc từng cơn, cánh cửa kẽo kẹt như ai cào.
Bỗng ông nghe cộc… cộc… cộc. Tiếng gõ nhịp nhàng dưới nền nhà. Ông quắc mắt:
– Ai đó!?
Không ai trả lời. Chỉ có tiếng cười con nít lanh lảnh. Ông tái mặt, vớ cây gậy lò dò đi ra. Dưới chân bàn thờ, một vũng nước đỏ loang dần, chảy ra từ trong hộc tủ. Ông run run mở ra – trong tủ không có gì ngoài… một chiếc đầu trẻ con trắng bệch, mắt trợn trừng, miệng nhét đầy đất sình.
Ông thét lên, té ngửa ra nền gạch. Nhưng khi kêu người trong nhà, quay lại nhìn, cái đầu biến mất. Chỉ còn vệt đất ướt loang lổ, mùi tanh ngai ngái.
Trong khi đó, bên nhà bà Năm Móm kể với hàng xóm rằng mới tối qua, bà thấy bóng một đứa nhỏ ngồi chồm hỗm trên mái nhà. Nó mặc cái áo trắng rách bươm, tóc xõa che hết mặt, hai tay ôm bụng như đau đớn. Nó nhìn xuống, cười khành khạch rồi nhảy cái “bịch” xuống sông. Bà run tới mức suýt ngã từ cầu khỉ xuống.
Còn ông Bảy Khương sáng nay vác cuốc ra ruộng thì thấy lúa rạp hết một khoảnh, như có đứa nào nằm lăn qua lăn lại. Ông cúi xuống nhổ thử mấy bụi lúa thì hỡi ôi, dưới gốc không phải rễ, mà toàn là… mấy bàn tay nhỏ xíu trắng nhợt, móng tím ngắt, bấu chặt xuống bùn.
Ông hét một tiếng, quăng cuốc bỏ chạy, về tới nhà thì lên cơn sốt hầm hập, cứ lảm nhảm:
– Nó nắm chân tao… nó lôi tao xuống hầm…
Đêm đó, nguyên làng không ai ngủ yên. Tiếng khóc trẻ con văng vẳng khắp nơi. Nhà nào nhà nấy, cứ canh nửa đêm là nghe có tiếng gõ cửa cộc… cộc… cộc. Mở ra thì chẳng thấy ai, chỉ có dấu chân nhỏ lấm bùn in dài trên hiên gạch, đi thẳng vào trong buồng rồi biến mất.
Bà Sáu bán hàng xén la lên:
– Trời đất ơi, tụi nó vô tới buồng tao, lấy dao chặt gà để lên bàn, xong còn rót rượu nữa. Con nít nào làm vậy!? Ma đó! Ma chứ ai!
Dân làng hoảng hốt, kéo nhau ra đình. Nhưng vừa tới nơi thì đình làng trống trơn, chỉ còn mấy vệt máu khô từ hôm con heo bụng nổ tung. Trên bàn thờ tổ tiên, nến tự cháy sáng, hắt bóng lũ nhỏ đứng chen chúc, gầy gò, mắt đỏ ngầu, miệng mỉm cười.
Một lão bô lão vừa thấy liền ngã quỵ, kêu thét:
– Tụi nó… tụi nó về đông đủ rồi… chết hết rồi… giờ về đủ hết rồi…
Đêm hôm ấy, cả làng Ba Ngói dậy sóng. Người già trốn trong mùng, con nít thì khóc thét, chó tru dai dẳng. Đám thanh niên hò nhau ra sông soi đèn bắt cá để trấn áp, nhưng càng soi, càng thấy trên mặt nước lấp loáng bóng người nhỏ xíu, tay chân cử động như đang bơi. Lửa ma bay thành từng cụm, sáng xanh, soi rõ gương mặt trắng bệch cười nhe răng.
Tiếng trống ngũ lôi vang lên từ miễu đầu làng, dồn dập, nhưng mỗi hồi trống vang lại có một đứa nhỏ từ bóng tối hiện ra, ngồi chồm hỗm giữa đường, cười ré lên rồi tan biến.
Cả làng hiểu: oán hồn đã thật sự trở lại, không chỉ đòi mạng những kẻ năm xưa, mà còn gieo tai ương cho cả dòng họ, cả dân làng Ba Ngói.
Trong đám hỗn loạn ấy, một người lặng lẽ xuất hiện – ông thầy pháp lạ mặt đi ghe từ dưới Trà Vinh lên. Ông đứng giữa bến sông, mắt nhìn đăm đăm vào ngọn lửa ma xanh lè đang cháy, miệng lẩm nhẩm:
– Oan hồn con nít… bị chôn sống… không dễ siêu đâu… Làng này… e còn nhiều chuyện động trời nữa…
Gió rít lên từng cơn, lá dừa nước xào xạc, như đồng tình, như cảnh báo.
Chương 20 Thầy 2 Sâm
Đêm ấy, gió sông thổi ào ào, ghe cộ, ghe tam bản neo kín bến, nhưng chẳng ai dám bước ra. Chỉ có một người đàn ông lặng lẽ đứng trên mui ghe, dáng cao gầy, khoác áo dài nâu sậm, tay xách cái giỏ tre nhỏ. Người ta chỉ thấy ánh nhang đỏ lừ trong tay ông lập loè, còn mặt mũi thì khuất trong bóng tối.
Tiếng xì xào lan khắp bến:
– Ổng là ai vậy ta?
– Nghe nói thầy pháp từ dưới Trà Vinh lên.
– Thiệt hông? Hay là ma đội lốt thầy pháp?
Một bà già lom khom chống gậy, run run nói:
– Người sống nào mà dám đi ghe một mình trong cái giờ quỷ nhập tràng này? Ổng hổng phải thường đâu…
Người đàn ông ấy bước xuống ghe, chân chạm bến gỗ mà không phát ra tiếng động. Lũ chó hai bên sủa inh ỏi, nhưng vừa sủa vừa chui đuôi, tru dài như than khóc. Ông chậm rãi đi thẳng vào đình làng Ba Ngói, nơi dân làng tụ tập.
Ánh đèn dầu lập loè, chiếu lên khuôn mặt ông: da ngăm đen, gò má cao, đôi mắt sâu hoắm nhưng sáng lạ thường. Ông ngồi xuống ghế tre, đặt cái giỏ tre lên bàn, mở ra. Trong giỏ không phải đồ ăn, mà toàn bùa vàng, hũ nhỏ đựng tro, vài nhánh ngải khô, cùng một cây roi dừa nước đã héo.
– Tôi tên Sâm. – Ông cất giọng trầm khàn. – Nghe tin ở đây oán hồn nổi loạn, nên chèo ghe lên coi. Ai là trưởng làng, bước ra nói chuyện.
Ông Hội Đồng run rẩy, tính bước ra, nhưng ánh mắt dân làng nhìn chằm chằm khiến ổng lùi lại. Cuối cùng, lão Hương Cả chống gậy bước ra, giọng run run:
– Thầy ơi… ma quỷ nó nổi nhiều quá, tụi tui sợ lắm rồi. Tối tối nó về gõ cửa, nó cười, nó khóc…
Ông Sâm gật nhẹ, lấy một nắm gạo sống rắc xuống đất. Gạo rơi xuống, lăn lóc, nhưng thay vì nằm yên, hạt nào hạt nấy bỗng… rụng máu đỏ lòm, thấm loang trên nền gạch. Dân làng đồng loạt la thất thanh, có người quỳ lạy, có người xỉu lăn ra.
Ông chỉ trầm giọng:
– Không phải tụi nó muốn hù đâu… mà là đang tìm đường nói chuyện. Nhưng tụi bây chôn sống bao nhiêu mạng nhỏ hồi xưa?
Cả đình im phăng phắc. Chỉ còn tiếng côn trùng ngoài bờ sông. Một bà già bật khóc:
– Trời ơi, thầy… lúc đó nghèo quá… nhà nào cũng bỏ con gái, con quỷ, ai dám nuôi… tao biết có mấy đứa bị chôn sống ở cái gò đất sau đình…
Ông Sâm nheo mắt, lấy nhang châm lửa, cắm ba cây ngay trước bàn thờ. Khói nhang bốc lên đen kịt, xoắn vào nhau, thành hình những khuôn mặt trẻ con trắng bệch. Có đứa mắt đỏ rực, có đứa cười hở lợi máu, có đứa thì mồm đầy đất cát. Tất cả nhìn chằm chằm xuống dân làng.
Tiếng trẻ con đồng loạt cất lên, the thé:
– Trả mạng… trả mạng…
Ông Sâm không hốt hoảng, chỉ từ tốn rút roi dừa nước, quất một cái chát xuống nền. Tiếng roi vừa dứt, mấy cây đèn dầu nổ bụp, tắt ngúm. Cả đình chìm trong bóng tối, chỉ còn ánh lân tinh xanh lè lượn lờ trong không khí. Dân làng ôm nhau run lẩy bẩy.
Bất chợt, cửa đình rầm một tiếng mở toang. Gió ùa vào mang theo mùi tanh nồng. Từ ngoài, từng bóng trẻ con lững thững bước vào, chân lấm bùn, nước nhỏ tong tong. Mỗi bước đi, nền gạch in lại một dấu bàn chân nhỏ, máu loang ra theo từng bước.
Ông Sâm vội tung bùa, miệng lẩm bẩm chú:
– Miên Hạ pháp phù, trừ tà diệt quỷ, linh hoả giáng hạ…
Bùa cháy sáng lóe, nhưng rồi tắt ngúm như bị dập nước. Một đứa trẻ cười khanh khách, bò lết trên trần nhà, hai mắt đỏ ngầu. Nó ngoái đầu ngược 180 độ nhìn xuống, hỏi bằng giọng the thé:
– Thầy… có cứu nổi hết không?
Cả đình rùng mình. Dân làng la khóc om sòm, chen nhau chạy ra cửa. Nhưng cửa đình lúc này đóng sập, then cài chắc nịch, chẳng ai mở được. Mấy đứa nhỏ ma quái bò khắp vách, len lỏi giữa người. Có bà bị cái tay lạnh ngắt sờ vào gáy, té xỉu ngay tại chỗ.
Ông Sâm vẫn đứng yên, mồ hôi chảy ròng ròng. Ông thở dài:
– Tôi cứu, nhưng làng này phải chịu trả. Ai phạm, ai giết, ai chôn… đêm nay phải khai hết. Không khai… thì tụi nó không đi đâu hết!
Lời ông vừa dứt, tiếng trẻ con khóc nỉ non vang khắp đình. Nhưng tiếng khóc ấy bỗng hoà lẫn với tiếng cười nham nhở, tiếng răng nghiến ken két, khiến da gà cả làng nổi lên rần rật.
Cơn oán khí đã thật sự bủa vây cả làng Ba Ngói, và trận pháp đầu tiên của ông Sâm chỉ vừa mới bắt đầu…



Bình luận
Chưa có bình luận