Đêm ấy, bầu trời như bị ai xé rách, trăng lưỡi liềm treo lửng lơ, ánh bạc mờ nhạt phủ lên cả bãi tha ma. Không gian ngột ngạt, lạnh ngắt, đến mức hơi thở ai nấy đều hóa thành khói trắng.
Tiếng cười con nít vang vọng bốn bề, nghe vừa hồn nhiên vừa rùng rợn, như thể có hàng trăm đứa đang chơi giỡn giữa đêm. Lửa xanh vẫn cháy lừng lững trên mộ bia, sáng lạ lùng, đủ để soi rõ những bóng nhỏ đang chuyển động.
Đám trẻ con ma quái vẫn đứng vòng tròn quanh nấm mộ to nhất. Bóng chúng nhập nhòe, khi thì rõ rệt như người thật, khi lại tan ra như khói. Thầy Cả Hữu gồng mình, hai tay chắp trước ngực, hít một hơi dài.
Ông rút trong túi ra một lá bùa màu vàng, quệt ngang ngọn đuốc đã tắt, khẽ niệm chú. Từ mảnh giấy, ánh sáng đỏ bùng lên, yếu ớt nhưng đủ để soi vòng tròn quanh đoàn người.
– Bà con đứng sát lại! – giọng thầy rắn rỏi, nhưng nghe kỹ vẫn có chút run. – Nhớ, đừng để tách đoàn!
Mọi người lập tức chụm vào, người nọ nắm chặt vai người kia, như sợ chỉ cần buông ra là bị kéo đi mất.
Đứa bé gái khi nãy lại bước lên. Nó chỉ thẳng tay về phía một người trong đoàn – chính là ông Sáu Tỵ, người nổi tiếng keo kiệt, từng giữ một chân hương chức ngày xưa.
Giọng nó the thé:
– Hồi đó… ông chôn tụi tui… ông nhớ hông?
Ông Sáu nghe vậy thì tái mét, mồ hôi tuôn ra như tắm.
– Trời đất… tao… tao có làm chi đâu…
Bất chợt, từ dưới chân ông, đất bỗng nhô lên, như có bàn tay bé nhỏ bấu vào cổ chân. Ông hét thất thanh, ngã quỵ, mặt cắm xuống bùn. Cả đoàn hoảng loạn.
Mấy người vội kéo ông dậy thì tá hỏa: cổ chân ông in hằn năm dấu tay đỏ bầm, như có ai vừa bóp chặt.
– Trời ơi… tụi nó kéo ổng! – một người lắp bắp.
Tiếng cười trẻ con đồng loạt vang lên, rợn tóc gáy. Chúng nắm tay nhau nhảy múa càng nhanh, hát vang bài đồng dao méo mó:
– Dung dăng dung dẻ…
– Cướp mạng trả chơi…
– Ai nợ ai đền…
– Máu xương cúng trời…
Lời ca như lưỡi dao, rạch vào không gian, làm mấy người đàn bà theo đoàn bật khóc nức nở.
Thầy Cả run run, nhưng vẫn cố đứng thẳng. Ông rút thêm ba lá bùa, ném mạnh xuống đất trước mặt vòng tròn. Lửa bùng lên, chặn lối bọn trẻ.
Ông gầm lớn:
– Các con! Muốn siêu thoát thì nói rõ oan khuất. Đừng gieo thêm máu!
Không khí im bặt. Rồi từ trong bóng tối, đứa bé gái ấy lại cất giọng:
– Hồi đó… tụi con đâu có té sông… tụi con đâu có đuối nước…
Nó dừng lại, đôi mắt đen ngòm long lanh như sắp khóc. Giọng nó nghẹn ngào mà quằn quại:
– Tụi con… bị… chôn sống!
Cả đoàn người chết điếng. Máu trong huyết quản như đông lại. Đám ma nhỏ khác cũng bắt đầu khóc thút thít, tiếng nấc vang rền, hòa lẫn tiếng gió u u, khiến nghĩa địa rợn ngợp như cửa địa ngục mở ra.
Ông Sáu Tỵ run lẩy bẩy, mặt trắng bệch như xác. Ông lùi lại, miệng lắp bắp:
– Tao… tao không biết gì hết… đừng… đừng hại tao…
Nhưng bọn trẻ đồng loạt quay mặt nhìn ông. Ánh mắt tụi nó sáng quắc, như hàng chục mũi dao ghim vào da thịt.
Bất ngờ, đất dưới chân ông Sáu sụt xuống, lôi ông tới sát nấm mộ to nhất. Ông la hét, chân cào cấu xuống đất, nhưng vô ích.
Mọi người định lao tới cứu thì thầy Cả hét:
– Đừng! Ai bước vô, coi như xong đời hết!
Đất dưới nấm mộ rung lên. Bùn nhão phòi ra mùi tanh lợm giọng. Giữa đêm tối, tiếng khóc trẻ con vang dậy, chấn động cả lồng ngực từng người.
Một bóng người đàn bà gầy gò bất ngờ xuất hiện giữa vòng trẻ ma – tóc rũ rượi, áo dài trắng dính máu, tay bế một đứa nhỏ tím tái. Bóng ấy ngước lên, đôi mắt vô hồn, giọng rên rỉ:
– Tụi nó… chôn… con tao…
Đoàn người rùng mình. Có người quỵ xuống, vái lạy liên hồi, miệng van:
– Trời ơi, oan hồn mẹ con… tha cho tụi tui… tụi tui đâu có biết gì…
Nhưng tiếng khóc và tiếng cười trẻ con lại hòa làm một, vang vọng dữ dội khắp nghĩa địa.
Ánh lửa bùa của thầy Cả dần tắt lịm, chỉ còn leo lét như sắp tàn.
Trong giây phút ấy, ai cũng cảm nhận rõ: trận chiến với âm hồn nơi đây mới chỉ bắt đầu…




Bình luận
Chưa có bình luận