Sáng sớm ngày thứ ba, cả làng Ba Ngói đã nhốn nháo như có hội. Nhưng không ai cười nói như ngày Tết, mà ai nấy mặt mày tái mét, lo lắng. Người già thì đem nhang đèn, gạo muối ra cúng tạm ở đầu ngõ. Đám con nít bị cấm tiệt không cho chạy ra đường. Đàn bà con gái thì tụm năm tụm bảy, bàn đủ thứ chuyện, nhất là mấy chuyện xảy ra gần đây, có mấy bà thì lầm rầm niệm nam mô.
Khoảng gần trưa, một chiếc ghe lớn từ hướng Gò Công từ từ cập bến. Ở Trên ghe, nổi bật nhất là một người đàn ông mặc áo dài đen, đầu đội khăn xếp, râu dài bạc phất phơ, dáng chậm rãi nhưng oai nghi. Đi theo ông là hai đệ tử trẻ, lưng đeo bầu rượu, tay xách hòm gỗ sơn màu đỏ.
Người làng vừa thấy bóng đã rì rầm:
– Ờ, thầy cả tới rồi đó!
– Trời đất, thầy cả Hữu… nghe danh ổng lâu lắm rồi.
– Ổng nổi tiếng trấn yểm mấy chỗ dữ ngoài miệt Gò Công, nghe đâu từng bắt cả ma nữ trên sông Soài Rạp…
Thầy Cả Hữu bước xuống ghe, dáng đi khoan thai, ánh mắt nhìn thẳng, không chớp, khiến nhiều người vừa kính vừa sợ. Ông cúi chào Hội đồng Khải rồi thong thả đi thẳng về phía đình. Không ai dám chen lấn, chỉ im phăng phắc dạt ra hai bên, như có luồng hơi lạnh phả qua.
Vào tới trong đình, sau khi ngồi vào chiếu, thầy Cả Hữu trầm giọng hỏi:
– Đêm qua còn ai thấy hiện tượng lạ không?
Bà Út Bông được đẩy lên kể chuyện dấu tay bùn non trên vách. Nghe xong, hai đệ tử của thầy Cả liếc nhau, mặt thoáng biến sắc. Một đệ tử khẽ thì thầm:
– Thầy… có lẽ bọn trẻ trong hố đã bắt đầu tìm lối ra…
Thầy Cả Hữu xua tay, giọng khàn khàn:
– Chưa tới lúc bàn chuyện ấy. Việc trước tiên là lập đàn, khai quan. Nhưng các người phải nhớ: khi đất mở ra, oán khí bốc lên, có thể cả làng sẽ chứng kiến cảnh chẳng mấy ai dám tin.
Cả đình rùng mình, ai nấy cúi mặt, không dám thở mạnh.
Chiều xuống, thầy Cả Hữu cùng đệ tử đi quanh gò mả, cắm những lá bùa vàng nhỏ xuống bốn hướng, vừa đi vừa niệm chú. Người dân đứng từ xa, không ai dám bén mảng lại gần.
Thình lình, một luồng gió lạnh rít qua, cát bụi bay mù. Cây trâm già trên gò rung bần bật như có ai lắc. Một tiếng cười lanh lảnh vẳng trong gió, như tiếng con nít nhưng kéo dài bất thường, the thé tới mức ai nghe cũng dựng tóc gáy.
Một bà già run run chắp tay:
– Trời ơi, tụi nhỏ nó… nó chọc kìa!
Thầy Cả Hữu đứng yên, mặt không biến sắc. Ông chỉ tay lên gò, quát lớn:
– Im đi! Oán linh nếu muốn siêu độ thì theo lễ mà đi. Còn ham náo loạn, ta sẽ bắt hồn, nhốt vào ngục đỏ, đời đời không siêu thoát!
Lời ông vừa dứt, gió lặng đi như có ai bấm nút. Đám dân làng thở hắt ra, nhưng trong mắt ai cũng còn nguyên nỗi kinh hãi.
Tối đó, trong đình, dân làng tụ tập chật ních. Thầy Cả bày hòm gỗ, lấy ra một pho tượng Quan Âm bằng đồng nhỏ, mấy xấp bùa vẽ tay, cùng những cây nhang dài bằng cổ tay. Đệ tử trải chiếu, đặt trống, chuông, thanh la ngay ngắn.
Hội đồng Khải rụt rè hỏi:
– Thầy… lễ này có chắc chắn thành công không?
Thầy Cả Hữu không đáp ngay. Ông nhìn quanh đình, ánh mắt quét qua từng người, rồi nói:
– Thành hay bại không chỉ ở ta, mà ở lòng dân làng. Nếu ai sợ, ai bỏ chạy, ai lén làm điều bất kính, sẽ rước họa vào thân. Đêm mai khai đàn, ta cấm không được giỡn cợt, không được khóc la, không được chen vô. Nhớ kỹ.
Tiếng ông trầm xuống, vang như tiếng trống. Không ai dám hó hé.
Đêm hôm đó, làng Ba Ngói lại mất ngủ. Người già thì thắp nhang suốt đêm, đàn bà ôm con không rời tay. Trẻ nhỏ lỡ khóc ré lên, lập tức bị bịt miệng vì sợ “tụi nó” nghe được.
Còn ở ngoài gò, ai đi ngang đều khẳng định thấy lửa xanh lập lòe, khi xa khi gần. Có người còn thề rằng nghe tiếng bùn “lẹt bẹt”, như có ai lội dưới đất, đang tìm đường ngoi lên.
Và giữa lúc ấy, trong buồng riêng của thầy Cả, ông Hữu ngồi thiền trước pho tượng Quan Âm, mắt nhắm hờ. Một con đom đóm bay vào, ánh sáng lập lòe. Nhưng khi nó đậu xuống bàn tay ông, ánh sáng ấy bỗng biến thành màu đỏ như máu.
Ông mở mắt, lẩm bẩm:
– Vong trẻ con… nặng nhất. Lần này e không chỉ là oan hồn, mà đã thành quỷ nhi cả rồi…




Bình luận
Chưa có bình luận