Chương 1 - Con Gái Hội Đồng



Dựa mé lộ sát kinh Trà Nu, từ cầu Tràm trở vô ước chừng hai trăm thước, có một khu nhà ở coi thiệt bề thế. Nhà lớn chính giữa xây theo kiểu cũ, ba gian hai chái, cột gỗ căm xe to bằng vòng tay người ôm, mái ngói âm dương phủ một lớp rêu xanh sậm. Trước hiên, dưới bậc tam cấp là khoảnh sân gạch đỏ trải rộng, mỗi viên gạch đều phẳng phiu, sạch sẽ, khác hẳn với con đường đất lầy lội bên ngoài. Phía bên trái căn nhà, chủ cất hai cái lẫm lúa song song, mỗi cái dài chừng mười căn, vách ván dày, mái thấp, hơn phân nửa lúa đã chất đầy tới nóc; còn phía sau là khu bếp núc, mái lá dày, vách đất; giữa hai nơi ấy lại có một cái kho rộng dựng sát nhà để xe ngựa, xe hơi, bên trong chứa đủ thứ nông cụ: nào cày, bừa, cuốc, xẻng, nào bồ cào, đòn gánh, gàu dây...

Cửa đã sang, nhà đã rộng, cảnh vật chung quanh càng thêm tươi tốt. Trong sân, vạn niên tùng, bùm sụm, cần thăng, linh sam, mai chiếu thủy đương đâm chồi nảy lộc; hai bên đường dẫn vô sân lại có mấy bồn bông sứ, bông huệ, trà mi, hồng cổ tỏa hương khoe sắc; đằng sau khu bếp thì là một khoảnh vườn rộng lớn, trong vườn xẻ mương lên liếp, trồng đủ thứ hoa trái, từ cây cau, bụi chuối, nhãn tiêu cho đến cây cam, cây bưởi, sầu riêng, vú sữa... nhìn đâu cũng thấy một vẻ sum suê trù phú trải dài khắp mắt.

Ấy là cơ ngơi của Hội đồng Trần Văn Chước mà người trong vùng quen gọi bằng hai tiếng “nhà trên”.

Đối lập với đó là những căn nhà lá lúp xúp cất dọc bờ ruộng, lưng quay ra kinh, mặt hướng vào đồng, họ gọi gọn lỏn là “dưới”.

Trên và dưới, rạch ròi như con nước ròng nước lớn. Có những thứ sinh ra đã thuộc về trên, có những phận cả đời chỉ quanh quẩn dưới bùn non hôi hám. Không ai cần nói ra, cũng chẳng ai dám lẫn lộn.

Buổi chiều, khi nắng xế đã len qua tán me già bên hiên và rơi thành từng vệt vàng sậm lên chiếc giường kê sát cửa sổ, cô Hai Liên mới trở mình thức giấc. Cô cất tiếng gọi một đứa tôi tớ, biểu bưng thau nước vô phòng, đợi nó nhúng khăn, vắt sơ rồi cô cầm áp lên mặt, nhẹ nhàng lau rửa.

Khi cô tới ngồi trước bàn trang điểm thì con Én cũng liền theo sau. Nó cúi xuống cầm chiếc lược ngà được chế tác tinh xảo, cẩn thận chải đầu cho cô. Nó không dám chải nhanh, càng không dám chải mạnh, chỉ dùng sức vừa đủ, động tác đều đều lặp đi lặp lại. Việc hầu hạ này, con Én đã thạo từ lâu; tuy vậy mà nó vẫn sợ. Sợ tóc cô rối, sợ đầu cô đau, bởi nó biết hễ tóc rối, đầu đau là cô Hai nó sẽ khó chịu. Mà hễ cô nó khó chịu thì cái tay nó phải rát, cái mông nó phải ê. Nhưng rát thì rát, ê thì ê, con Én vẫn cứ thích chạm vào mái tóc cô nó. Tóc vừa đen vừa mượt, lại còn tỏa hương thơm dịu, chả bù cho mái đầu chỉ toàn dậy mùi mồ hôi lẫn mùi nắng cháy của nó.

“Được rồi.” Giọng cô Hai Liên bất chợt vang lên, âm sắc như ngọc nảy trên khay vàng.

Con Én lập tức dừng ngay động tác, thu lược, đứng nép sang một bên.

Cô Hai Liên xoay người lại, liếc khắp lượt căn phòng rồi biểu nó đi lau dọn.

Con Én cúi đầu khẽ “Dạ”.

Hai Liên đứng lên, lướt qua nó như người ta lướt qua đá sỏi, đưa tay cầm tới cuốn tiểu thuyết mới mua ở trên Sài Gòn rồi quay gót đi ra phía ngoài. Chừng ra tới nơi, trông thấy bà Hội đồng đương nằm trên bộ ván mà quạt mát, cô mới hỏi: “Má dậy hồi nào đó, má?”

Bà Hội đồng Lê Thị Lài, năm nay tuổi vừa đúng bốn mươi, có nước da trắng, gương mặt tròn, đôi mắt xếch nhẹ, nhan sắc dù không còn cái tươi rói của thuở xuân thì song vẫn giữ được vẻ bóng bẩy nhờ son phấn và gấm vóc vây quanh.

Bà xoay mặt ngó con, đáp: “Má dậy nãy giờ rồi.”

“Mình mới đi xe từ Sài Gòn về hồi hôm, sao má không nghỉ thêm cho khỏe. Bộ có việc gì cần gấp hay sao mà má dậy?” Vừa nói cô Hai Liên vừa tiến lại chỗ bộ ván cẩm lai.

“Có việc gì đâu, tại má ngủ hổng được chớ.”

“Ủa, sao mà má ngủ hổng được?”

“Từ hồi xế tới giờ má thấy nặng đầu quá.”

Bà Hội đồng dùng tay day hai bên thái dương, rồi bà nói tiếp: “Ve dầu gió bữa hổm má đưa con còn giữ đó không, lấy đưa cho má xức một chút.”

“Con để trong phòng chớ đâu. Má nằm đây, con đi lấy cho má.”

Nói rồi, cô Hai Liên đứng dậy, đi lấy ve dầu gió đem tới cho bà Hội đồng. Ngồi sát bên bà, cô cầm tay, rờ trán, hỏi: “Má có thấy đau chỗ nào nữa không?”

“Không, chỉ thấy nặng đầu thôi.”

“Chắc tại hồi trưa má đi ra ngoài đồng coi tụi tá điền đập lúa, đong thóc, chói nắng nên má nhức đầu chớ gì.”

“Ờ, chắc vậy đa!”

“Trưa nắng mà má đi ra ngoải chi cho cực.”

“Thì tại hồi trưa thằng Lĩnh nó mắc việc không đi coi được nên má phải ra coi chớ. Để tụi tá điền ở ngoải không ai quản, sợ tụi nó làm ẩu đa.”

“Ôi, má sợ chi hổng biết! Tụi nó ăn gan hùm hay sao mà dám làm ẩu? Đứa nào giỏi làm con coi thử; con đánh cho gãy tay, què giò, rồi con lấy lại ruộng đất, xem coi nó có chết đói không cho biết.”

Những lời độc địa như vậy mà cô nói nghe nhẹ tênh, trong đôi mắt không hề gợn lên một chút xao động nào.

Xót làm chi? Ở đời, có thương thì người ta mới xót. Chớ nào giờ cô có biết thương cái lũ tá điền hèn mọn ấy đâu mà biểu cô xót.

Trần Ngọc Liên cô sinh ra đã ở trên cao. Từ thuở biết đi, cô đã quen với nền gạch sạch sẽ, quen với mùi trầm hương thoang thoảng trong nhà, quen với sự hầu hạ của đám tôi tớ mỗi sớm mỗi chiều. Những bữa cơm luôn đủ món, những bộ quần áo luôn được may bằng thứ vải đắt tiền. Khi cô ho một tiếng, đã có người chạy lại. Khi cô cau mày, cả gian nhà lập tức lặng đi.

Ba cô – Hội đồng Chước – là đại điền chủ nức tiếng trong vùng, nắm giữ không biết bao nhiêu ruộng đất. Mỗi lần ông bước qua sân, người làm đều rạp mình nép sát vách, không ai dám ngẩng đầu nhìn thẳng. Chỉ cần một cái phất tay, một lời nói vu vơ của ông cũng đủ quyết định miếng cơm manh áo của bao nhiêu kẻ dưới. Còn má cô, xuất thân cũng thuộc hàng danh giá, từ lúc lọt lòng đã được cưng nựng, nâng niu. Chính bà là người dạy cô từng lời ăn tiếng nói, từng cái liếc mắt, từng tướng ngồi, tướng đi, biểu phải sao cho ra dáng con nhà quyền thế. Nghèo khổ, trong những câu chuyện ấy chỉ là thứ để tránh xa. Là cái gì đó thấp kém, dơ bẩn, không đáng bận tâm, càng không đáng thương hại.

Ngọc Liên lớn lên giữa những lời dạy như vậy, tự nhiên mà tin. Tin đến không cần nghĩ. Với cô, người nghèo sinh ra là để cúi đầu. Cúi đầu trước cửa nhà cô, trước tiếng gọi khẽ mà lạnh, trước từng cơn bực dọc không cần nguyên cớ. Đó là trật tự vốn có của đời này, cũng như nước lớn nước ròng, như lúa trổ bông rồi gặt hái.

Nhắm chừng bà Hội đồng đã đỡ, cô Hai Liên mới nhấc mông rời khỏi bộ ván, cầm theo cuốn tiểu thuyết đi lại chỗ cái ghế mây gần đó ngồi xem.

Bà Hội đồng nằm day mặt ngó con. Bà dòm mái tóc đen huyền, dòm tướng đi yểu điệu. Bà coi cái mặt không thoa phấn mà trắng trong, coi cái miệng không bôi son mà ửng đỏ... Chừng dòm coi đã rồi thì bà khẽ nhếch môi cười tủm tỉm.

Con gái bà đây, dung nhan thiệt là đẹp đẽ.

Đã đẹp mà lại còn sang. Ở dưới mặc quần lụa trắng, trên thì áo lãnh mới tinh, tay bên trái đeo cà rá lấp lánh, còn tay bên phải đeo vòng cẩm thạch, trong khi trước ngực là mặt sợi dây chuyền có nhận hột xoàn lớn, bông tai cũng nhận hai hột xoàn nữa. Đời nay, con nhà giàu hạng nhất, trang sức cũng chỉ đến thế là cùng.

Bà Hội đồng nằm ngó con một hồi rồi bà nghĩ thầm trong bụng: Con mình nay đã mười bảy, cái tuổi đủ để bắt đầu tính tới chuyện cưới xin, trước sau gì thì mình cũng phải gả. Ngặt nỗi, mình chỉ có mỗi nó là gái. Từ nhỏ đến lớn, mình hết mực nâng niu chiều chuộng, việc nặng mình không cho nó làm, việc nhẹ cũng chẳng để nó phải động tới móng tay, thảy đều do tôi tớ gánh vác. Tuy là không dan nắng, không dầm mưa, chỉ ở nhà đọc sách, viết thơ, nhưng có nó kề bên sớm hôm hủ hỉ lòng mình cũng thấy vui. Mai này, mình gả nó đi thì thể nào bụng mình cũng phải buồn, dạ mình cũng phải nhớ. Cha chả, mà nếu gả thì biết gả chỗ nào cho xứng đáng?

Cô Hai Liên đang mải mê đọc sách nên chẳng hay sự dòm ngó kia, càng không dè những ý nghĩ ấy của bà Hội đồng. Cô đọc tới đoạn thương tâm, xúc động quá nên mắt cô rươm rướm. Té ra cô cũng biết xót, biết đau. Chỉ là cô chỉ xót cho người trong sách, đau cho kẻ trong truyện, những phận đài các chớ chẳng phải hạ nhân, chẳng phải ngoài đời.

Đương lúc thẫn thờ thì cô bỗng nghe bà Hội đồng nói: “Con này, vừa rồi hai má con mình lên Sài Gòn thăm em con đó, má có gặp ông thầy giáo Chương, ổng khen con quá chừng.”

Cô Hai buông sách, lấy lại tinh thần, hỏi: “Thầy giáo Chương nào vậy má?”

“Thầy dạy trường em con đa.”

Cô Hai Liên lục tìm trong trí óc, khẽ lắc đầu: “Con không nhớ.”

“Nhớ sao đặng. Con đã gặp ổng hồi nào đâu mà nhớ.”

“Má nói nghe ngộ hôn. Con với thầy đó chưa gặp mà má kêu ổng khen con quá chừng.”

“Con chưa gặp ổng nhưng ổng gặp con rồi. Ổng biết nên ổng mới khen, chớ phải ổng khen đại hay sao.”

“Ủa? Ổng gặp con hồi nào mà sao con hổng biết?”

“Cái hôm chủ nhật con với em con dạo phố sắm đồ đó, ổng đi ngang ổng thấy; kế bữa sau ổng ghé vô nhà dì Ba con chơi, gặp má đương ngồi nhai trầu nên sẵn ổng thưa chuyện luôn. Tưởng ai xa lạ, té ra là chỗ quen với dì Ba con.”

“Cái ông thầy gì kỳ cục. Ổng thấy mà ổng không lại, để đem đi nói riêng với má chớ. Mà ổng khen sao vậy má?

“Ổng khen con đẹp. Ổng nói trước nay ổng chưa thấy con gái Việt Nam nào duyên dáng như con.”

Cô Hai Liên cúi đầu, miệng cười chúm chím.

Bà Hội đồng nhân đó mới thử thăm dò: “Ông thầy ổng nói vậy, má nghe phải lắm chớ. Con gái má lớn lên đẹp đẽ, sang trọng nhường này, thiệt hổng biết cỡ bậc quyền quý nào mới xứng đáng để con trao thân gửi phận.”

Cũng chả rõ cô Hai Liên có nghe ra được ý tứ của bà Hội đồng hay không, chỉ thấy cô cứ cúi mặt cười hoài.

Bà Hội đồng sốt ruột, đương tính mở miệng nói nữa thì cô Hai bỗng đứng lên. Rồi cô thưa: “Má này, má nằm nghỉ nghen, con ra ngoài sân dạo coi bông coi kiểng một chút.”

Nói dứt câu là cô quay gót đi luôn. Ban đầu cô đi nhanh, tới giữa sân cô bước chậm lại, chừng ra đến chỗ mấy bồn bông sứ, bông huệ, ngó thấy có bụi huệ đang trổ bông thơm nồng thì thôi không bước nữa. Cô cúi xuống, lựa cái bông tươi nhất, đẹp nhất mà ngắt đưa lên mũi ngửi. Bỗng đâu có cơn gió từ bên hông thổi lại làm rối tóc cô, nhiều sợi ngã xuống tới gò má khiến cô phải lấy tay vuốt lên.

Từ tướng đi, dáng đứng cho đến cử chỉ vén tóc hay động tác nghiêng đầu, hết thảy đều phát sinh tự nhiên. Nhưng dầu cô không cố ý, thì cái gương mặt sáng rỡ, cái nét duyên dáng của cô, nó cũng đã làm cho người đi ngang vô tình trông thấy phải nghiêng tròng, lé mắt để rồi bước hụt chân té ngã.

Tiếng “Phịch” vang lên thu hút sự chú ý của cô Hai Liên. Cô ngoảnh đầu ngó lại.

Cách chỗ cô một đoạn, mấy đứa tá điền đang vác lúa từ chiếc ghe đậu ngoài bến nước vô chất trong lẫm, đứa nào đứa nấy tay chân lấm bùn, lưng áo sờn vai. Cô quét qua một lượt, cuối cùng ánh mắt dừng ở cái đứa đứng phía cuối hàng.

Không phải thằng, là con. Dáng người nó mảnh khảnh, áo bà ba nâu đã sờn cổ, đường chỉ bung ra vài chỗ. Mái tóc cột gọn sau gáy, không trâm cài, không hoa lá. Thấy cô nhìn qua, nó không cúi rạp chào như những đứa khác, chỉ khẽ nghiêng đầu, động tác rất nhẹ, rất nhanh, như sợ làm phiền. Mới rồi, cũng chính nó là người trượt chân té ngã.

Cô Hai Liên nhăn mày, quay mặt đi, khẽ hừ một tiếng.

Thấy cô đi rồi, mấy đứa tá điền mới dám thở mạnh. Riêng đứa con gái duy nhất trong đám, nó cúi xuống, khuỵu đầu gối, hai tay ôm ghì lấy cái bao lúa còn nặng hơn thân nó, gồng sức nâng bổng đưa lên vai, tiếp tục vác vô trong lẫm. Chỉ là, nặng thì nặng, ánh mắt nó vẫn không nhịn được mà lén nhìn tấm lưng yêu kiều của người vừa quay gót bước vô sân kia.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout