Hai ngày sau, tiếng trống triều nổi lên ba hồi, từng hồi dội vang từ Ngọ Môn đến tận bức thành phía Nam. Tại điện Cần Chánh, vạc đồng sừng sững ngoài sân như bóng của một linh thú khổng lồ đứng im lìm trấn giữ. Văn võ bá quan xếp thành hai hàng ngay ngắn, trong bộ triều phục chỉnh tề, từng bước rảo vào điện, gương mặt ai nấy đều nghiêm nghị, khiến cho bầu không khí đầu ngày tĩnh lặng đến nặng nề.
Điện Cần Chánh mở cửa, bên trong không gian rộng lớn là dàn cột lim chạm trổ tinh xảo tỏa ra mùi gỗ cổ trầm mặc. Hàng đại thần chia ngôi mà đứng, bên tả là quan văn, bên hữu là quan võ. Tất cả đều im lặng, chỉ nghe tiếng áo xiêm khẽ sột soạt và vài tiếng ho nhỏ cố ghìm. Ở gian giữa ngự tọa hãy còn trống bởi thánh thượng chưa đến.
Dưới bệ rồng, phía trước hàng bá quan là chỗ dành cho hoàng thân quốc thích. Đông Cung thái tử Bảo Nghiêm đã có mặt từ sớm. Hắn đứng nghiêm chỉnh, đôi tay giấu trong ống tay áo rộng, dung mạo khôi ngô, khoé môi điểm một nét cười nhẹ như chẳng có gì đáng lo. Thế nhưng trong vài giây ngắn ngủi, ánh mắt hắn lướt qua hàng võ quan, nơi chỗ dành cho Bảo Vinh hãy còn trống không. Cái liếc nhanh ấy chuyển thành nụ cười nửa miệng.
Một vài đại thần đứng cách hắn mấy hàng ghé tai nhau thì thầm, giọng nhỏ đến mức như muỗi kêu: "Lần này… vấn đề đê Văn Giang, Đông Cung e là khó thoát tội."
"Khó gì, ở đây còn ai dám đối chọi thẳng với đông cung?"
"Chỉ sợ ngài ngự nộ khí công tâm thôi…"
Đúng lúc này có một bóng người tiến vào. Người ấy vận trường bào màu lam sậm, bổ tử nền kim tuyến thêu kỳ lân oai vệ, từng đường chỉ vàng óng ánh dưới ánh đèn cung điện. Trên mão có phiến vàng, trước sau đều thêu hoa rực rỡ, hai cánh chuồn nạm vàng khẽ rung theo mỗi bước đi của chàng. Cân đai nạm bạc khảm đồi mồi phản chiếu ánh sáng mờ, hia đen vững chãi nện xuống nền gạch, trên tay chàng cầm hốt ngà trắng ngần.
Ánh mắt chàng lướt qua những người có mặt ở trong điện một lượt, sau khi xác định vị trí còn trống ở bên hữu. Chàng không chần chừ mà bước nhanh đến, thẳng lưng đứng vào vị trí đó.
Khoảnh khắc ấy không gian trong điện như ngưng đọng. Các vị Thượng thư đồng loạt hít một hơi lạnh, tiếng thở nghe rõ đến từng nhịp. Sự hiện diện của chàng chẳng khác nào nhát chém bổ xuống cục diện vốn đang căng như dây đàn.
Đông Cung thái tử thoáng khựng, song rất nhanh gương mặt hắn lại giãn ra, đôi mắt ánh lên tia sáng khó đoán, khóe môi khẽ nhếch. Cái nhìn hắn dõi theo Bảo Vinh chất chứa cả ngạc nhiên lẫn hàm ý hiểm sâu.
Ngay sau Bảo Vinh là một bóng áo khác bước theo vào. Viễn Du với ánh mắt lạnh như băng. Hắn bước đi không nhanh không chậm, nhưng khi vừa thấy bóng dáng của hắn xuất hiện thì đã có không ít các vị đại thần nhăn mày khó chịu.
Bởi ai cũng biết nếu chỉ một mình An Nhơn Quận công thì không có gì đáng ngại, nhưng khi có thêm cái tên Viễn Du kia thì chẳng ai dám chắc buổi thiết triều hôm nay còn giữ được yên ả.
Tiếng trống khai triều vang ba hồi. Dưới nền điện rộng là hàng ngũ quan thần chỉnh tề, trên tay ôm hốt, áo mũ nghiêm trang, cúi đầu làm lễ lạy năm lạy.
Trên bảo tọa, thánh thượng uy nghi trong bộ hoàng bào thêu viên long nạm trân châu, ánh mắt thâm trầm của ngài lặng lẽ lướt qua từng hàng bá quan văn võ. Giữa triều, lời tấu đối đáp của các đại thần vang lên đều đều.
Ngay từ đầu buổi, Đông cung Bảo Nghiêm đã chủ động bước ra, từng lời uyển chuyển. Hắn khéo léo dẫn dắt, vừa giảm nhẹ cơn thịnh nộ của thánh thượng trước việc đê Văn Giang bị vỡ, vừa xoay chuyển trọng tâm:
"Muôn tâu phụ hoàng, việc đắp đê này là trọng sự. Nhi thần tuy đã tận lực nhưng e vẫn còn nhiều hạn chế. Trong triều may thay có An Nhơn quận công vốn được dân gian kính gọi là Nam Dực, chẳng ai am tường dân tình hơn hắn. Nếu như giao việc trị thủy cho hắn, tất lòng dân thêm yên tâm, đồng thời cũng hợp với ý trời."
Lời vừa dứt, gian điện lập tức lặng đi, như thể mọi hơi thở đều bị nuốt mất. Ai cũng nghe rõ sự "hợp tình hợp lý" mà Đông cung vừa đưa ra, nhưng phía sau nó lại là một thế đẩy không lối thoát. Biến sự ca tụng của dân thành gánh nặng buộc Bảo Vinh phải gánh.
Viễn Du đứng phía bên này khẽ động, ngón tay của hắn siết chặt lấy thân hốt. Ánh mắt hắn ánh lên tia sắc lạnh. Nói về vấn đề này nếu là Bảo Vinh thì còn có cách đối đáp, nhưng... hắn nhìn qua người đứng cách mình không xa kia, trong lòng bỗng thấy lo cho Khải.
Trái với sự lo lắng âm thầm của Viễn Du, Khải thì vẫn luôn quan sát kẻ khoác trên mình bộ áo bào màu đỏ có thêu hình rồng kia. Tuy hắn sở hữu một gương mặt sáng sủa, lời nói ung dung, khí chất vương giả, dường như không có điểm nào để bắt bẻ. Thế nhưng có một điều khiến chàng không khỏi nghi hoặc. Ở hắn phảng phất một nét quen thuộc lạ lùng, như thể chàng đã từng gặp ở đâu đó rồi. Đặc biệt là nốt ruồi son nơi khóe mắt phải của vị Đông cung kia, như hình ảnh gợi dậy trong tâm trí của chàng bao suy tư rối bời ngay giữa chốn điện vàng.
Ngay trong lúc tâm trí của chàng còn lạc đi, tiếng nói từ trên cao đột ngột cất lên: "An Nhơn quận công Bảo Vinh!"
Từng ánh mắt trong triều cùng lúc hướng về phía chàng. Thánh thượng nhìn thẳng vào chàng, gương mặt của ngài uy nghiêm mà lạnh lẽo: "Khanh có kế sách gì để trị thủy?"
Thánh thượng chưa kịp hỏi lần thứ hai, Khải đã bước ra giữa điện. Chàng dập đầu khấu kiến, rồi cất giọng rõ ràng:
"Muôn tâu phụ hoàng, việc trị thủy là trọng yếu, nhi thần kính xin dâng lên mấy điều. Thứ nhất, phải khơi thông lòng sông, đào vét phù sa để nước xuôi thuận, tránh chỗ cạn nông gây nghẽn dòng.
Thứ nhì, nên đắp đê hộ thành kèm theo đê chính, phòng khi vỡ thì còn phân dòng, giảm họa lũ lụt. Thứ ba, cho trồng tre gai cùng cỏ giữ đất nơi chân đê, vừa làm kè tự nhiên, vừa bền rễ chống sạt lở.
Thứ tư, xin lập riêng một đội quân hộ đê, túc trực mỗi kỳ mưa bão để kịp thời gia cố, không để việc nhỏ thành nạn lớn. Có như vậy mới hợp tình hợp lý, cứu muôn dân khỏi cảnh màn trời chiếu đất."
Lời lẽ vừa dứt, cả điện lặng đi một nhịp. Vài vị lão thần vốn cau mày khi nãy, giờ khẽ gật gù.
Bảo Nghiêm tuy vẫn giữ nụ cười nhạt nơi khóe môi, song trong mắt thoáng hiện tia biến sắc. Còn Viễn Du, chỉ đến lúc này mới từ từ nới lỏng bàn tay đang siết chặt thân hốt, nhưng sắc mặt của hắn vẫn âm u như mây giông tích tụ.
Trên ngai vàng, thánh thượng ngồi thẳng lưng, ánh mắt trở nên sâu thẳm, ngón tay gõ nhịp nhẹ trên thành ghế, như đang nghiền ngẫm lời vừa nghe được từ đứa con trai thứ ba của mình.
Điện Cần Chánh im ắng chỉ một thoáng sau lời tấu của An Nhơn quận công. Rồi ngay lập tức phe cánh của Đông cung thái tử liền bước ra, từng lời chất vấn như mũi tên nhắm thẳng vào Khải.
Thượng thư Bộ Hộ khom mình tâu, giọng đều đều nhưng hàm ý mỉa mai: "Bẩm bệ hạ, ý kiến khơi thông lòng sông nghe qua thì hợp lý, nhưng đào vét tốn kém ngân khố, mà quốc khố hiện đã eo hẹp. Hạ thần e rằng đây chỉ là kế sách trên giấy, chưa liệu đến thực tế."
Tiếp đó, Thượng thư Bộ Công vội chen vào, giọng khắc khổ, mắt híp lại như soi mói: "Việc lập đê phụ vốn đã từng làm ở Cơ Xá, cuối cùng lại thành vô ích, nước vẫn tràn ngập. Nếu nay cứ theo ý An Nhơn quận công, chẳng khác nào lặp lại sai lầm xưa. Chẳng phải lãng phí nhân lực, của cải hay sao?"
Người trước vừa dứt lời, Thượng thư Bộ Hình lại nhấc hốt, giọng điệu rắn rỏi, nói: "Bẩm bệ hạ, về việc đắp đê hộ thành hay đặt đội hộ đê, thần cho là hợp lẽ. Nhưng còn việc trồng tre cùng cỏ giữ đất nơi chân đê, e rằng chỉ là phương kế dân gian truyền miệng, chưa thấy ghi chép trong điển chế triều trước. Thần sợ lời tâu của An Nhơn quận công chưa đủ căn cứ, dễ bị kẻ ngoài chê cười là lấy chuyện thôn dã đem luận chốn triều đình."
Lời lẽ từng người như gọng kìm, vừa muốn phủ định kế sách, vừa muốn bôi nhọ thanh danh của Bảo Vinh. Trong điện, vài kẻ theo phe Thái tử khẽ gật gù, như phụ họa thêm. Không khí vốn căng thẳng, nay lại chồng lên như có mây đen kéo đến.
Khải đứng giữa triều, tay vẫn giữ hốt ngà, ánh mắt bình tĩnh. Chàng đang định tiếp lời thì Viễn Du bước ra. Cất giọng điềm đạm nhưng ẩn ý châm biếm như đã thấm nhuần trong mạch máu của hắn:
"Bẩm bệ hạ, thần chỉ xin thưa đôi câu. Quốc khố đúng là có hạn, nhưng xin hỏi Thượng thư Bộ Hộ, giữ vàng trong kho để ngắm hay là để lo cho dân? Vàng chất đầy mà để dân đói khát, thử hỏi còn thu được đồng thuế nào chăng? Ngân khố cạn là bởi dân gầy mòn, chứ đâu phải bởi đê điều!"
Đám quan xôn xao, mặt Bộ Hộ tái đi như mất máu, bộ râu dài của ông cũng vì thế mà run lẩy bẩy. Viễn Du tiếp tục quay sang Bộ Công, giọng điệu của hắn nhấn nhá, đôi môi khẽ nhếch: "Còn việc đê phụ ở Cơ Xá thất bại… Ấy chẳng qua vì kẻ giữ việc bất tài, đê chưa kịp dựng đã lo xây nhà riêng. Ngựa què không chở nổi xe, há lại trách con đường không bằng phẳng? Nay đem một việc sai lầm của kẻ bất lực mà ngăn chặn kế sách cứu dân, chẳng phải là lấy bóng đèn mờ mà che mặt trời hay sao?" Hắn cười nhạt: "Nếu ngay từ đầu bộ Công tính toán đâu ra đó, thì đê Văn Giang đã chẳng vỡ. Ấy là chứng nghiệm nhãn tiền đấy, không biết là ngài Thượng thư có hiểu không?"
Bộ Công lúng túng, hắng giọng muốn cãi nhưng không chen nổi. Viễn Du lại nghiêng đầu, mắt như lưỡi dao quét sang Bộ Hình: "Còn Bộ Hình chê dân gian ngu muội, điều trên chưa từng ghi trong chính sử… Hạ thần chỉ e chính sử cũng do người đời sau ghi chép. Trồng tre cùng cỏ giữ đất nơi chân đê vốn là kinh nghiệm xương máu nghìn năm truyền lại, ai dám khinh thường? Nếu cho rằng những gì chưa chép trong chính sử đều là chuyện thôn dã, vậy chẳng phải là coi nhẹ công phu bao đời dân chúng giữ đê. Há chẳng phải chính dân chúng mới là người ngày đêm đối diện sóng nước, chứ không phải đám quan chỉ biết ngồi trong công đường để rồi lấy chữ nghĩa mà chê cười mồ hôi nước mắt của họ hay sao?"
Một câu cuối như cái tát đau điếng giữa đại điện khiến cho Bộ Hình mặt mũi xanh lét, trán rịn mồ hôi. Có vị đại thần không nén nổi khẽ bật cười, rồi vội ho khan để che giấu.
Mấy vị thượng thư bị dồn ép tới mức đỏ mặt tía tai, song chẳng thể phản bác lại cái miệng "chửi hay như hát" của Viễn Du.
Còn Viễn Du, hắn khom mình một chút, giọng hạ thấp, như thể vừa rồi chẳng hề có mũi dao nào lóe sáng trong lời nói: "Muôn tâu bệ hạ, hạ thần chỉ dám thẳng thắn phân giải, không dám vượt lễ."
Trên ngai vàng, ánh mắt của thánh thượng thoáng lóe lên tia hứng thú, còn phe Thái tử thì im thin thít như bị ai cắt mất lưỡi.
Bình luận
Chưa có bình luận