Từ hôm ấy, Khải lui tới nhà Lâm thường xuyên hơn. Ban đầu là để uống trà, trò chuyện, nhưng sau thành người giúp Lâm coi sổ sách thuế má cửa làng. Khải buôn bán, tính sổ khéo, lại biết dân tình ra sao, nên giúp việc rất đắc lực. Có khi đang viết dở tờ tấu, Lâm ngẩng lên hỏi: "Nhà ông Lý ở làng trên dạo này còn kiện tụng gì với hàng xóm không?"
Khải đang ngồi lật sổ, trả lời tỉnh bơ: "Dứt rồi. Mà vụ ấy tôi bảo rồi, ông chồng họ Lý lén lút mượn trâu nhà hàng xóm đem cày rồi giấu biệt, cuối cùng bị vợ lôi ra mới lòi chuyện. Quan xử mãi cũng nhức đầu."
Lâm bật cười: "Thì tôi cũng cần xử sao để cho dân nghe xuôi tai, chứ không phải xử cho đúng hết luật."
Khải vỗ bàn: "Cậu bắt đầu giống ông cụ non rồi đấy."
Lâm vờ nghiêm mặt, thẳng lưng nói: "Làm quan thì đâu phải lúc nào cũng lồng đạo lý vào được?"
Thỉnh thoảng có cụ già trong làng đến trình việc, thấy Khải ngồi ở bàn bên tay cầm sổ sách, cụ còn cúi đầu: "Chào quan ạ!"
Khải cười méo miệng: "Ấy ấy, tôi là người buôn bán, đừng gán cho tôi làm quan, kẻo tôi ăn cơm không trôi."
Lâm đứng cạnh cười nhạt: "Cơm không trôi thì ăn cháo. Ở đây cũng có cháo rau ngót nấu tôm, còn ngon hơn cơm đấy."
Hai người lại cười rộ lên, đám lính hầu gác ngoài sân ngơ ngác chẳng hiểu quan phủ cười gì mà cười suốt ngày thế.
Tình bạn giữa hai người cứ thế lớn dần, chỉ cần mỗi sáng có chén trà pha nóng, có người lật sổ giùm, khi đi tuần sẵn cùng dạo một vòng khắp chợ, lúc về thì cùng ngồi dưới gốc bàng nhâm nhi nắm kẹo lạc mua của đứa nhỏ bán hàng rong.
Khải bắt đầu hiểu ra, cái uy của một người làm quan không nằm ở mũ áo mà là ở cách y bước chân tới cổng từng nhà, hỏi từng việc nhỏ. Còn Lâm cũng nhận ra, đôi khi làm quan cần một người như Khải, biết buôn bán, biết lắng nghe và biết cười xòa lúc cần. Chuyện lớn vì thế mà nhẹ hơn đôi phần.
Huyện Ý Yên vốn bao năm bị nhũng nhiễu vì quan trên quan dưới ăn chia, nay đã dần dần trở mình như thay một lớp áo mới. Đường làng được đắp lại, chợ quê mở thêm sạp lớn nhỏ, người dân có quan, nhưng quan ấy không hống hách. Mỗi lần ai đó hỏi: "Có phải quan phủ và ông Khải là chỗ thân tình chăng?"
Thì cả hai chỉ xua tay, cười bảo: "Vì từng gặp nhau khi chưa có gì, nên sau này dẫu mỗi người đã có vị trí riêng, thì vẫn thấy yên lòng khi ở cạnh nhau, chẳng cần phải dè chừng chi cả."
Từ khi mọi việc vào nếp, nơi công đường chẳng còn cảnh kêu khóc om sòm như trước. Sáng sớm, Lâm thức dậy từ khi gà vừa cất tiếng gáy. Y thường tự mình quét sân, chăm giàn thiên lý, tưới vài luống rau sau vườn, đoạn mới vào công đường xem xét giấy má.
Dân tới trình việc, phần nhiều là chuyện đất ruộng tranh dành, hoặc con trâu nhà này lỡ giẫm lúa nhà kia. Lâm xử trí công bằng, nhưng không lạnh lùng. Có khi y chỉ ngồi nghe đôi bên trình bày, rồi cười nhẹ: "Vụ này mà để tôi xử, chắc hai bên chẳng ai vui đâu. Hay là mỗi người nhường một bước, rồi bắt tay nhau cái cho khỏi mang tiếng thù dai?"
Lời lẽ hiền từ mà có lý. Dân nghe ra, nhiều người bấm bụng phục. Họ bảo nhau, ông quan trẻ ấy trông mặt thì non mà bụng thì chín, nhìn cứ tưởng học trò, ai ngờ xử việc không sai một ly.
Chiều nào y không bận, Khải cũng ghé qua. Hai người có một cái bàn tre nhỏ đặt dưới tán cây đa phía sau phủ. Trên bàn có ấm trà, dăm cái bánh gai, đôi lúc là trái ổi, trái mít hái trong vườn đem ra ngồi nhấm nháp.
Khải có lần trêu: "Cậu làm quan mà ăn uống giản dị thế này, không sợ lính dưới bảo quan nghèo hay sao?"
Lâm nhấp ngụm trà, trả lời: "Tôi nghèo cái miệng, chứ đâu nghèo cái lòng. Mà lòng no thì bụng cũng ấm thôi."
Khải cười khẽ, rót thêm nước. Trà thơm tỏa khói mỏng, gió quê đưa hương lúa non lẩn trong không gian, thơm dìu dịu. Nhiều hôm hai người ngồi đến xế bóng, nói đủ thứ chuyện rồi mới chịu về. Giống như hôm nay, Lâm đột nhiên nổi hứng, cầm cuốn sách, đọc một đoạn thơ, Khải ngồi kế bên gật gù: "Hay đấy, nhưng nói thật, tôi nghe cậu đọc còn hay hơn mấy ông hát dạo."
"Thế người định gả tôi cho phường chèo chắc?" Lâm quay sang, ánh mắt lấp lánh mang ý đùa cợt.
Khải định nói thêm gì đó, nhưng ánh nhìn vừa chạm vào Lâm thì khựng lại. Sống mũi cao, đôi môi mềm mại, ánh nắng xế chiều hắt lên gò má của y, khiến đường nét trên gương mặt y càng thêm nổi bật trong sắc vàng dịu cuối ngày. Vẻ đẹp ấy thanh nhã tựa như khóm trúc mọc ven đường làng, nghiêng theo gió nhưng chẳng bao giờ gãy. Khải bỗng thấy lòng mình nao nao. Một người như thế, chỉ cần đứng yên thôi cũng đủ khiến người ta ngoái lại nhìn mãi.
Khải thất thần trong một thoáng, rồi vờ đưa mắt nhìn xuống chén trà trên tay, giọng nửa đùa nửa thật: "Phường chèo không dám nhận đâu. Gặp người như cậu có khi họ sợ hát sai nhịp, mãi ngó cậu rồi quên cả tuồng cũng nên."
Lâm phì cười rồi im lặng. Tay vẫn lật sách, nhưng mắt không đọc nữa. Gió nhẹ đưa tà áo bên gối khẽ lay động, tiếng ve ngoài sân bắt đầu râm ran. Một lát sau, Khải đặt chén xuống, chống tay sau gáy, ánh mắt trở nên suy tư: "Cậu có nghĩ đến sau này làm quan lâu năm, liệu mình có còn ngồi được thế này không? Thong thả uống chén trà quê, nhìn đồng ruộng bát ngát, lắng nghe tiếng ve kêu gọi ngày hè."
Lâm lặng đi một lúc, sau đó y gấp sách, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đang chuyển màu hoàng hôn: "Nếu trong lòng mình còn giữ được những điều thân thuộc, thì ở đâu cũng có thể ngồi lại mà thấy bình yên như lúc này. Còn nếu đã đánh mất rồi... thì dẫu ngồi nơi quen thuộc nhất cũng hóa ra xa lạ."
Khải ngả người ra sau, nhìn y dưới ánh chiều đã dịu: "Cậu nói câu nào cũng giống người sắp đi xa ấy."
Lâm nhướng mày: "Xa đâu mà xa. Tôi ở đây, gần ngay cậu còn gì."
Khải không đáp. Chỉ đưa mắt nhìn sang người bên cạnh, thấy y ngồi ung dung, ánh mắt trầm tĩnh, nét cười nhè nhẹ thoảng qua như gió. Chàng không hiểu cảm giác trong lòng mình lúc này là gì. Chỉ biết ở bên Lâm lâu như thế, tự nhiên lại quên mất phải giữ khoảng cách. Cứ vậy mà quen với dáng người ấy giữa sân gạch đỏ au, quen với tiếng lật sách khe khẽ, quen với sự bình lặng không ai gượng ép.
Bình luận
Chưa có bình luận