Nơi Khởi Nguồn Của Mọi Chuyện



Năm 19xx ở miền Tây bỗng nổi lên một tin đồn về một người phụ nữ ăn thịt người. Chuyện kể rằng có một người phụ nữ ở Sóc Trăng chỉ vừa mới sinh con nhưng lại bảo với chồng rằng mình thèm ăn tim và gan heo. Khi anh chồng ra chợ mua những món vợ cần, thì ở nhà người vợ đã moi bụng chính đứa con mình mới sinh ra để lấy gan và tim rồi ăn ngấu nghiến. Khi anh chồng mang tất cả những món đồ đã mua được từ chợ trở về nhà, cũng là lúc anh bàng hoàng nhận ra đứa trẻ còn đỏ hỏn nằm trong nôi của mình lúc này chỉ còn là một cái xác tím ngắt từ lâu, máu tươi chảy dài khắp sàn nhà, ruột gan vương vãi ra khắp nơi. Còn người vợ đang nằm ổ ở nhà chờ anh mua đồ về cũng đã biến mất. Sau khi cơn hoảng loạn qua đi, anh hô hoán cho bà con lối xóm vì nghĩ rằng vợ mình bị điên, nhờ mọi người giúp mình một tay để tìm kiếm xem hiện tại bà ta đang ở đâu. 

Người ta còn đồn rằng bà ta đã nhiều lần xuất hiện ở nhiều vùng quê khác nhau, gây ra các vụ mất tích của trẻ em với mục đích là moi tim và gan chúng để ăn sống. Công an cũng đã tổ chức vây bắt nhưng không thành công. Có những lúc tưởng chừng như đã bắt được, thì bà ta lại đột nhiên biến mất chỉ để lại sau song sắt kiên cố trong phòng giam trơ trọi một chiếc còng số 8. Người dân sợ đến nỗi không dám cho con em ra đường vào ban đêm, thậm chí mỗi lần nghe tin người đàn bà ấy xuất hiện ở vùng nào là cả một khu vực nhuộm một màu sắc u tối ám ảnh và nặng nề bao trùm. 

Chính quyền địa phương ở thời điểm đấy sau khi tìm hiểu cũng ra sức tuyên truyền rằng đó là tin đồn thất thiệt, nhằm mục đích trấn an dư luận. Nhưng nỗi sợ về bà ta vẫn luôn ám ảnh người dân vùng quê suốt một thời gian dài. (Trích: Ma Quỷ Nhân Gian Ký, nhưng đã bị tác giả thay đổi mốc thời gian nhằm điều chỉnh cho phù hợp với cốt truyện) 

Và ở thời điểm hiện tại, thực thể tâm linh kỳ bí mà gia đình ông Bảy đang phải đối mặt đó chính là người phụ nữ trong câu chuyện trên. Người đời hay còn gọi bà ta là Ma Lai. 

Gia đình ông Bảy là một đại gia đình với đầy đủ bốn thế hệ, người lớn tuổi nhất trong nhà là bà cố của Ngọc Trâm. Bà lúc này thọ 96 tuổi và hiện đang còn rất minh mẫn sống tại căn nhà từ đường dưới Sóc Trăng cùng con cháu. Nói về cuộc đời của cố Lang thì chỉ dùng bốn chữ ‘đau khổ tột cùng’ vẫn không đủ để kể hết. Bà sống trên đời này hơn 96 năm, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống. Và… có những cuộc chia ly cứ ngỡ là chỉ tạm biệt nhau một chút thôi rồi mai sẽ gặp lại, nhưng cuộc sống này lại luôn trớ trêu như thế. Nó từ từ lấy đi những người mà cố Lang yêu thương nhất, để giờ bà chỉ có thể gặp lại họ ở trong mơ mà thôi.

Năm cố Lang 11 tuổi, bà đã phải rời xa chị hai, người đã chăm sóc trông nom bà từ khi còn nằm trong nôi đến lúc lớn lên, người thương yêu bà nhất và cũng là người bà gắn bó nhiều nhất trong gia đình còn hơn cả cha mẹ. Năm bà 14 tuổi, do làm việc lao lực mà bà đã phải tiễn biệt cha mẹ về nơi an nghỉ cuối cùng, bỏ lại một mình bà bơ vơ trên cõi đời đầy rẫy những đau khổ này. Năm bà 41 tuổi cũng là lúc bà phải tự tay chôn cất đứa con trai duy nhất của mình, không có nỗi đau đớn nào có thể so sánh được với nỗi đau của một người mẹ mất con, không có nước mắt nào có thể rửa trôi đi nỗi thống khổ ấy. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người mẹ ấy vẫn còn khắc khoải một nỗi buồn không thể gọi tên. Đến năm bà 60 tuổi, người bạn đồng hành bên cạnh bà suốt cả cuộc đời cũng đành rời xa bà mãi mãi. Chồng bà cuối cùng cũng phải nói lời tạm biệt để đi đến nơi có con trai bà ở đó. Thầm hy vọng rằng ở nơi thế giới bên kia, hai người họ lại được đoàn tụ cùng nhau. 

Vì những người bà yêu thương luôn ra đi một cách bất ngờ và không hề báo trước, nên cố Lang hiện tại không muốn phải tiễn biệt thêm cả đứa cháu trai duy nhất của mình được. Cố Lang là người đã nuôi nấng ông Bảy từ nhỏ đến khi đã trở thành một ông chú trung niên, gắn bó với bà cả một cuộc đời của ông. Nên khi trông thấy ông mỗi ngày đều bị con Ma Lai ấy hành hạ từ thể xác đến cả tinh thần, thấy ông sức khỏe ngày một yếu dần càng khiến cố Lang thêm phần áy náy. Bà không muốn đứa cháu trai này lại ra đi giống như chị hai, cha mẹ, con trai và chồng của bà. Chắc có lẽ mọi thứ đều là do lời nguyền độc ác nào đó vô tình trấn yểm lên mỗi một con người nhà cố Lang. Con Ma Lai ấy gần như đã ám ảnh cả cuộc đời bà, nó len lỏi vào từng ngóc ngách trong nhà trực chờ lấy đi từng người thân yêu của bà rồi mang họ đi đến nơi mà bà chẳng thể nào với tới được. Dù cho cả nhà đã tìm rất nhiều cách với hy vọng hoá giải được lời nguyền tàn độc ấy, cố Lang cũng đã mời hết thầy pháp này đến pháp sư nọ đến. Nhưng tất cả mọi người đều lắc đầu cảm thán, họ sợ ma lực của con Ma Lai đó nên không dám ra tay giúp đỡ gia đình bà.

Chính bản thân ông Bảy cũng đã chấp nhận sự thật, ông buông xuôi tất cả mọi thứ để nó đến đâu thì đến. Chỉ hy vọng trong những ngày cuối đời có thể nhìn thấy Ngọc Trâm yên bề gia thất là ông yên tâm rồi.

Những ngày gần đây cố Lang hầu như chẳng thể nào chợp mắt nổi, bà cứ trông ra ngoài hiên chờ đợi bóng dáng của ông Bảy trở về. Nếu một chốc không thấy cháu trai, bà liền lập tức kêu Ngọc Trâm gọi điện cho ông nhằm xác nhận ông có đang an toàn hay không. Cả nhà cứ sống trong tâm trạng lo lắng bất ổn ấy cũng đã gần cả tháng nay. 

Kể đến đây ông Bảy liền thở dài não nề một hơi, khuôn mặt buồn bã trông chẳng có chút sức sống nào. Ngay cả một người luôn ngồi ngoài rìa câu chuyện như Thành An cũng cảm thấy đồng cảm với số phận của gia đình ông Bảy. Chắc bà cố Lang đã phải chịu nhiều đau khổ lắm, khi lần lượt chứng kiến từng người thân yêu rời xa mình mà lại chẳng thể làm được gì ngoài đứng nhìn. Nghĩ vậy, cậu khẽ đưa tay lay nhẹ vạt áo Văn Khải, đợi đến khi hắn cảm nhận được động tĩnh quay sang nhìn lại Thành An mới khẽ mấp máy môi. 

“Chuyện… chuyện này cậu giúp được không?” 

Hắn nghe xong liền vui như mở cờ trong bụng, vì vốn dĩ không cần đến Thành An nhắc Văn Khải cũng sẽ ra tay giúp bạn của ba một phen. Nhưng một khi cậu đã chịu mở lời nhờ vả rồi, hắn nhất định sẽ tận dụng cơ hội này kéo cậu đi theo mình rồi sau đó là dùng chiến thuật ‘mưa dầm thấm lâu’, hy vọng có thể thuyết phục được Thành An đi bắt quỷ cùng mình. Nghĩ đến đây khiến hai mắt hắn sáng rỡ, vội vội vàng vàng ngồi bật dậy bỏ đi vẻ nhõng nhẽo thích pha trò thường ngày của mình, Văn Khải khoác lên người một vẻ nghiêm túc khiến ông Bảy ngồi đối diện cũng phải cảm thấy có chút bất ngờ trước thái độ khác hoàn toàn này.

“Nếu chú nói đây là lời nguyền của dòng họ chú, vậy thì nó phải có điểm bắt đầu và các quy tắc rõ ràng. Vì theo con thấy khoảng thời gian mà ba và ông nội của chú mất cũng không có quy luật gì cả. Giống như cứ 10 năm sẽ có một người trong nhà mất chẳng hạn, còn đằng này thì thời gian họ mất cách nhau rất xa và cũng không có quy luật cụ thể. Cho nên con nghĩ lời nguyền sẽ phụ thuộc vào điều cấm kỵ nhiều hơn là phụ thuộc vào các cột mốc thời gian. Vậy thì chú thấy trước khi những người trong gia đình chú mất, họ đã vi phạm điều cấm kỵ nào không ạ? Và ngay cả chú cũng đã làm điều gì để vi phạm đến điều cấm kỵ của con Ma Lai đó không chú.”

Nghe Văn Khải nói đến đây, mọi người trong phòng đều phải ngẩn người ra suy ngẫm và chính bản thân ông Bảy cũng phải nhìn Văn Khải bằng một ánh mắt khác. Vì những điều hắn vừa nói quả thật đang xoáy sâu vào trọng tâm của vấn đề, mà chính bản thân là người trong cuộc như ông Bảy đây vẫn chưa từng một lần nghĩ đến. Thứ duy nhất mà ông Bảy quan tâm là lời nguyền tàn độc mà bà cố Lành chị ruột của cố Lang đã gieo rắc lên từng thành viên trong nhà, chứ ông chưa từng một lần nghĩ đến chuyện vì sao lời nguyền lại được bắt đầu hay các điều kiện để khiến lời nguyền ấy linh ứng là gì cả. Hoặc cũng có thể là do bản thân ông đêm nào cũng nằm mơ thấy một cái đầu bay lơ lửng trên không, tóc tai rũ rượi về đòi mạng mình đâm ra quá khiếp đảm nên chẳng thể suy nghĩ thêm được gì. Để giờ đây khi Văn Khải đã bắt đầu đề cập đến vấn đề ấy, ông Bảy mới thực sự nghiêm túc suy nghĩ về những chuyện đã qua, cùng xâu chuỗi lại mọi chuyện để xem lời nguyền bắt nguồn từ đâu và cái chết bất ngờ của tất cả các thành viên trong gia đình là do phạm phải điều cấm kỵ gì. 

Và nếu muốn đề cập đến nơi đã khởi nguồn của tất cả mọi bi kịch của gia đình ông Bảy, thì phải nói đến khoảng thời gian mà khi đó bà cố Lang vẫn còn là một đứa trẻ luôn lẽo đẽo theo chị hai vòi vĩnh kẹo ăn.

Vào những năm 1900 tại Sóc Trăng có một gia đình kiểu mẫu với một cặp vợ chồng và hai đứa trẻ. Vì nhà nghèo, cha mẹ quanh năm làm nương rẫy bán mặt cho đất bán lưng cho trời suốt từ sáng sớm tinh mơ đến khi tối muộn mới về, bỏ lại hai đứa trẻ thơ ở nhà dắt díu nhau mà sống. Cô chị Thị Lành năm nay vừa tròn 16 tuổi, thân là chị cả trong gia đình nên cô rất ra dáng luôn luôn chăm sóc em nhỏ và hoàn thành tất cả mọi công việc trong nhà một cách cực kỳ tươm tất. Do cha mẹ bận rộn chuyện đồng áng nên từ khi sinh Thị Lang ra đến giờ, hầu như lúc nào cũng chỉ có một mình Lành trông nom em gái. Thật không ngoa khi nói Thị Lành là người mẹ thứ hai của Thị Lang, vì cô chính là người đã bế bồng chăm bẵm cho em gái chu đáo đến từng chân tơ kẽ tóc và ở thời điểm hiện tại Thị Lang cũng vừa lên 10 tuổi. 

Cứ ngỡ cuộc sống của hai chị em sẽ mãi được yên bình bên cạnh nhau như thế, nhưng nào ngờ lại có một biến cố ập đến với hai đứa trẻ khiến cho Thị Lang mãi mãi phải rời xa chị hai của mình.

Ngày hôm đó cũng giống như bao ngày khác, sau khi nhóm lửa nấu cơm xong xuôi Thị Lành liền múc đồ ăn ra chén cho em ăn trước, rồi sau đó mới đi dọn dẹp nhà cửa chờ cha mẹ về. Đợi đến giữa trưa, đột nhiên cô thấy bóng dáng cha mẹ trở về nhà cùng với một người phụ nữ lạ mặt. Điều này khiến cô cũng có một chút thắc mắc trong lòng, vì đây là khoảng thời gian mùa vụ bội thu sao cha mẹ lại không ra đồng để gặt lúa mà lại ở đây cùng với người phụ nữ trông cực kỳ diêm dúa kia. 

Sở dĩ cô có ấn tượng không tốt lắm với người phụ nữ lạ mặt ấy là vì bộ đồ bà ba đang bận trên người bà ta. Với chất liệu vải phi bóng, kèm theo đó là màu vàng tươi chói mắt khiến người phụ nữ trông chẳng khác gì một quả chuối biết đi là mấy. Khuôn mặt bà ta được trang điểm lòe loẹt với lớp phấn nền vừa dày vừa trắng, làm cho màu da hơi rám nắng ở phần cổ tách biệt hoàn toàn với lớp da mặt trắng bệch kia. Phần mắt được tạo điểm nhấn bằng màu xanh lá kéo dài đến tận đuôi mắt, hai má màu hồng đậm được đánh lố đến gần cả nửa khuôn mặt, đôi môi đỏ chót của bà ta lúc này cứ hoạt động liên tục không ngừng. Và dù cho lớp trang điểm có dày đến cỡ nào cũng không thể che đi những nét thâm sạm do bị năm tháng bào mòn trên khuôn mặt của bà ta. 

Thị Lành cố rướn cổ nhổm người về phía trước để nghe xem không biết người phụ nữ kia đang nói chuyện gì với cha mẹ, mà lại khiến cho ánh mắt hai người ngập tràn vẻ thích thú chốc chốc lại bật cười vui vẻ đến như vậy. Thứ mà một đứa con như cô dù có cố gắng ngoan ngoãn nghe lời cả đời cũng chẳng thể nào đổi lại được một nụ cười của hai người họ.

Rồi bỗng cha mẹ kêu cô ra chỗ tấm phản nơi cả ba người đang ngồi để rót nước trà mời khách, Thị Lành cũng đáp ‘dạ’ một tiếng sau đó liền bỏ dở công việc nhà đang làm xuống nhanh chóng đi ra ngoài hiên, nơi có tấm ván gỗ cũ kỹ được đặt dưới tán cây bàng đang toả bóng mát. 

Nhìn động tác thuần thục mà dịu dàng của cô gái mới chớm xuân thì, bà mối gật gật đầu tỏ vẻ hài lòng không thôi. Thị Lành rất đẹp, cô đẹp một nét đẹp dân dã dịu hiền đặc trưng của người con gái miền Tây, chứ không phải là nét đẹp kiêu kỳ xa hoa ở chốn thị thành. Đã vậy cô con gái lớn của nhà vợ chồng ông Chánh đây lại còn giỏi giang, tháo vát, biết quán xuyến nhà cửa. Phù hợp với mọi tiêu chí mà cụ Thòn đưa ra để cưới về làm vợ lẽ. Bà mối càng nhìn Thị Lành càng cảm thấy hài lòng, bà chắc mẩm chuyến này mai mối thành công rồi. 

Đợi đến khi Thị Lành pha một ấm trà mới và rót nước trà ra ly xong xuôi, lúc cô định trở lại vào trong nhà để có thể tiếp tục rửa chén thì đột nhiên cánh tay bị bà mối nhanh chóng níu lại. Cô khẽ cúi đầu nhìn xuống khuôn mặt diêm dúa đang cười toe toét của bà mối, cố ý rụt tay về mấy lần nhưng lại không thành công, nên chỉ đành đứng yên tại chỗ chờ xem bà còn muốn dặn dò thêm điều gì nữa hay không. Nhưng thứ Thị Lành chờ đợi được không phải là một lời sai bảo nhờ cô lấy cái này lấy cái kia giúp, mà nó lại là một bộ vòng ximen với bảy chiếc được làm bằng vàng đang được bà mối tra vào tay cho. 

Hành động đường đột của bà mối khiến cô phải trố mắt ngạc nhiên vội vàng rút tay mình về nhưng đã quá trễ, vì bà đã thành công xỏ lần lượt cả bảy chiếc vòng vào cổ tay gầy guộc này mất rồi. Thị Lành bối rối nhìn cha mẹ như đang cầu cứu, nơi cổ tay vừa được tiếp xúc với bộ ximen có cảm giác hơi ấm nóng như va phải lửa làm cô giật mình một cái. Đột nhiên khi không lại có một người lạ đến nhà rồi cho cô vàng, một món đồ quá mức quý giá đối với nhà làm nông như gia đình cô. Nên Thị Lành có chút khó xử không biết phải nói từ chối như thế nào mới khéo. 

Trái ngược với sự lúng túng trong đôi mắt Thị Lành, ông bà Chánh khi vô tình dõi theo từng động tác dứt khoát của bà mối liền vui vẻ ra mặt, khuôn miệng cứ kéo lên mãi từ lúc nãy đến giờ và vẫn chưa có dấu hiệu nào cho việc dừng lại. Chính vì vậy mà cả hai đều không mảy may nhận ra tín hiệu cầu cứu phát ra từ đứa con gái lớn đang đứng đối diện mình. Lần này nhờ phúc của con gái mà cả gia đình được cứu rồi, cứ nghĩ đến cảnh thoát khỏi kiếp làm nông quanh năm mượn đất của địa chủ làm lụng vất vả mà lòng vui khôn xiết. Nếu như cụ Thòn chịu cưới con Lành nhà ông về làm vợ lẽ, thì đến những mùa gặt sau ông bà Chánh sẽ không còn phải lo lắng về chuyện nộp tiền thuế đất cho địa chủ, rồi nhìn bọn gia nô trắng trợn cướp hết tất cả số lúa vừa trồng được đi nữa. 

Ở cái làng quê nghèo này, người dân chẳng có nổi một mảnh vườn để cắm cọc nữa huống chi là mơ tưởng đến một mảnh đất rộng lớn để trồng lúa. Họ chỉ còn cách thuê một mảnh đất nhỏ của địa chủ cụ thể là cụ Thòn đây để cắm sào trồng lúa. Làm lụng vất vả là thế, nhưng đến mùa gặt lúa tiền lại đổ hết vào kho của cụ Thòn chứ người dân có được mấy đồng đâu. Nên ở cái làng này người nghèo thì càng ngày càng nghèo, còn bọn địa chủ thì chỉ cần ăn trắng mặc trơn vẫn giàu nứt đố đổ vách đấy thôi. 

Hiện tại gạo trong nhà lại chẳng còn bao nhiêu, ngày nào cả nhà cũng phải ăn khoai, sắn, khi thì bo bo, bữa nào ngon ngon thì có cơm độn, thịt và cá là những thứ quá xa xỉ đối với nhà ông Chánh. Bần cùng túng quẫn đến độ ông bà phải mang tiếng bán con để đổi lấy lại miếng ăn sống qua ngày. 

Lúc tiễn bà mối về, Thị Lành đứng khóc rấm rứt cả buổi không dứt. Vì cô là người thông minh lại hiểu chuyện nên chỉ cần nhìn sơ một cái là biết ngay cha mẹ đang muốn gả cô đi. Nếu như là một nhà làm nông nào đó có cậu con trai cũng đang trong độ tuổi thiếu niên chưa lấy vợ bao giờ, thì chắc là cô đã không khóc lâu đến như thế. Đằng này cha mẹ lại muốn gả cô làm vợ lẽ cho cụ Thòn, một ông lão đã ngoài 60 tuổi với hai bà vợ lớn nhưng lại không con không cháu, cụ Thòn vốn là người Tiều qua nơi đây để định cư sinh sống. Nhà cụ giàu có lắm, đất đai thì cò bay thẳng cánh cho nên cụ mới cho những người nông dân nơi đây thuê đất làm rẫy, trong đó có cả nhà Thị Lành. Mợ cả của cụ cũng là người Tiều năm nay đã ngoài 50, cả hai đã bên nhau từ khi còn xuân thì đến nay mái tóc đã điểm hoa râm. Còn mợ hai lại là người miền ngoài, năm đó mợ hai là con của một địa chủ giàu có không kém cạnh gì cụ Thòn. Mợ hai vừa xinh đẹp lại còn quyền quý khiến cho cụ Thòn của năm ấy vừa gặp đã phải lòng, mê mẩn mợ như điếu đổ. Cụ Thòn đã phải mang trầu cau qua dạm hỏi, cầu xin cha mẹ mợ dữ lắm họ mới chịu gả con gái cho. Nhưng khi lấy cụ Thòn và theo cụ về mảnh đất Sóc Trăng này, thì mợ hai cũng đã gần 40. Tuổi xuân thì của người con gái cũng qua đi, nhan sắc dù vẫn đoan trang quyền quý nhưng cụ Thòn lại muốn nạp thêm vợ ba vào nhà. 

(Sẵn tiện giải thích thêm, vì sao lại có danh xưng là cụ Thòn và mợ cả. Thực tế trong danh xưng của người miền Nam sẽ không có từ Cụ hoặc Mợ Cả. Ở miền Nam chỉ có ông Thòn và bà hai mà thôi, nhưng khi cụ Thòn dọn về mảnh đất Sóc Trăng ở, người dân ở đây không biết nên gọi cụ là ông Thòn hay A Thòn - tên gọi mà người Tiều hay dùng. Người dân trong làng sợ rằng gọi A Thòn thì sẽ hơi thất lễ với địa chủ. Và thật ra chính cái cách gọi ông Thòn cũng không đúng với người miền Nam nữa. Vì ở miền Nam, mọi người sẽ không bao giờ gọi tên thật của người lớn vì nếu làm như thế sẽ có cảm giác như mình đang vô lễ với bậc trưởng bối. Mọi người chỉ có thể gọi thứ bậc trong nhà của người lớn mà thôi, ví dụ như chú Năm, bác Bảy, ông Chín, cô Sáu, dì Hai, cậu Tư… Còn ở miền Bắc thì mọi người có thể thoải mái gọi thẳng tên của người lớn ví dụ như Bác Long, Bác Hoàng, Cô Ngọc… 

Khi mới dọn về, người dân ở đây đều lạ lẫm với cụ Thòn và cũng chẳng biết cụ là người con thứ mấy trong nhà để tiện gọi cho đúng nữa. Nên cái cách gọi Cụ Thòn này là do người dân gọi theo cách mà mợ hai - người miền Bắc hay gọi. Và cũng vì cả hai vợ chồng cụ Thòn đều là người Tiều, chỉ có mợ hai là gần gũi thân thuộc với người dân ở đây mà thôi, nên mọi người mới quyết định sẽ gọi theo như vậy. Gọi riết thành ra quen miệng, vì vậy mới có danh xưng lạ lẫm với con người miền Nam đến thế.

Không phải là tác giả dùng danh xưng sai cho bối cảnh đâu ạ, mong mọi người đừng hiểu lầm mình tội nghiệp.)

Năm ngoái cụ Thòn cũng có cưới thêm vợ ba về nhà, cũng là một cô gái đang ở độ tuổi cập kê giống cô, nhưng chẳng hiểu sao mới cưới mợ ba về nhà có mấy tháng mà mợ lại phải chết yểu. Cụ Thòn cho gia nhân lan tin ra ngoài là mợ ba vì bỏ nhà theo tình nhân trẻ nên mới bị đánh cho đến chết. Và ai cũng tin vào lời cụ Thòn nói, nhưng chỉ có một mình Thị Lành là không tin mà thôi. Vì cô là bạn thân của nhỏ Út, cô biết rất rõ tính cách của nhỏ như nào. Dù biết là trước khi được cụ Thòn cưới về làm vợ lẽ, nhỏ Út có yêu đương qua lại với anh Tân một thời gian. Nhưng từ khi bị cha mẹ nó ép buộc phải cưới cụ Thòn, nó đã chấm dứt tình cảm với anh Tân từ lâu thì làm gì có chuyện nó bỏ nhà theo anh Tân. Vậy mà kết cục của nhỏ Út lại bi thảm đến như thế, ngay cả anh Tân cũng bị cụ Thòn sai gia đinh đánh cho một trận thừa sống thiếu chết rồi bị đuổi ra khỏi làng, cấm cửa không bao giờ được vác mặt về làng thêm một lần nào nữa. 

Và hoàn cảnh của Thị Lành hiện tại có lẽ cũng sẽ giống như nhỏ Út, cả đời này sẽ phải sống với người mà mình không thương, niềm hạnh phúc là một điều gì đó quá xa vời đối với cô. Nhưng… cô biết cha mẹ cũng có nỗi khổ của riêng mình, cả một đời làm lụng vất vả vậy mà lại chẳng đủ ăn. Nếu cô chấp nhận làm vợ lẽ cụ Thòn thì có lẽ cuộc sống của cha mẹ cũng đỡ vất vả hơn, cô cũng có thể báo hiếu công ơn sinh thành. 

Thị Lành đưa tay lau đi vệt nước mắt còn đọng lại trên má, lúc này Thị Lang đang nằm trong lòng chị mà khóc lóc thảm thiết đến khi mệt lã rồi mới chịu thiếp đi trong vòng tay chị hai. Cô khẽ đưa tay xoa mái tóc rối bù của em mình, nhìn con bé gầy đến trơ cả xương, cả người thì đen nhẻm do dang nắng lâu ngày mà lòng cô quặn thắt. Thị Lành chợt nghĩ, nếu như cô có tiền có lẽ nào em gái cô sẽ được ăn no mặc ấm, vui vẻ hạnh phúc cả ngày mà không cần phải bận tâm đến bất kỳ điều gì nữa hay không. Việc cô hy sinh đi hạnh phúc cá nhân để đổi lại cho gia đình cô một tương lai không còn tăm tối, điều đó… thật sự rất đáng mà. Thị Lành nắm chặt lấy bộ ximen vàng trong tay, cô âm thầm đưa ra một quyết định làm thay đổi cả cuộc đời cô, cũng là cột mốc dẫn đến những sự ra đi bất ngờ của người thân trong gia đình Thị Lang sau này.

50

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout