"KHÔNG!”
Gió rít bên tai, cảm giác rơi tự do cuốn phăng mọi ý nghĩ trong đầu Nguyễn Tuấn. Cảnh vật xung quanh xoay tròn hỗn loạn, đài Vãng Sinh mờ dần phía xa. Bỗng một luồng sáng chói lòa bùng lên, buộc chàng nhắm chặt mắt. Trong khoảnh khắc ấy, Nguyễn Tuấn cuối cùng cũng nhìn thấy vợ mình.
Nàng vẫn xinh đẹp như thuở nào, người vận áo cưới đỏ rực, mày liễu môi son nhưng đôi mắt đẫm lệ, đang đứng lẻ loi bên vách vực sâu hun hút.
Nguyễn Tuấn kinh hãi tột độ, vội gào lên: “Ngọc Hoa… đừng nhảy! Nàng chờ ta!”
Nhưng tiếng kêu tuyệt vọng của chàng chưa kịp vọng lại đã bị vực sâu dưới đài Vãng Sinh nuốt chửng, kéo linh hồn chàng vào màn đêm vô tận.
Cùng lúc đó, ở một thế giới khác. Trên lục địa Tứ Liên, tại đỉnh Thiên Sơn thuộc Xích Nam quốc, con trai của thủ lĩnh bang Hổ Thiên ra đời. Cha cậu đặt tên con là Nguyễn Tuấn – “Tuấn” trong “Tuấn Kiệt”. Không biết do ý trời sắp đặt hay chỉ là ngẫu nhiên, khoảnh khắc đứa trẻ cất tiếng khóc đầu tiên, trời đất Xích Nam chấn động. Tiếng rồng ngâm, hổ gầm vang vọng khắp núi rừng, dị tượng khiến ba quốc gia láng giềng cũng phải rúng động. Họ lo sợ đây là điềm báo “chân mệnh thiên tử” giáng thế. Nếu có bậc đế vương xuất hiện ở Xích Nam có thể làm thiên hạ đảo lộn, thậm chí thống nhất bốn nước dưới một ngọn cờ. “Diệt họa phải diệt từ trong trứng”, ba nước láng giềng không ai bảo ai, cùng lúc âm thầm chuẩn bị. Một cơn bão ngầm đang dần thành hình, chỉ chờ thời cơ bùng nổ.
*
“Ê chúng bay, trên cành dương hình như có người kìa! Bọn mày theo tao xuống dưới coi sao!”
“Đúng là có người rồi, người đó mặc áo xanh… hình như là Cậu Cả!”
“Thằng Mậu, mày chạy qua bên kia báo cho bang chủ biết mình tìm được Cậu Cả rồi!”
Trời vừa sáng, tiếng la thất thanh của đám quân thảo khấu đã vang vọng khắp núi rừng. Bọn họ đã tìm ròng rã một ngày kể từ khi Nguyễn Tuấn rơi xuống vực. May mắn ông trời không tuyệt đường người, chứ với sự yêu thương của thủ lĩnh bang Hổ Thiên dành cho con trai mình, nếu bọn chúng không tìm được Cậu Cả, e rằng ông sẽ róc thịt chúng làm đồ tế lễ mất!
Nguyễn Tuấn là con trai độc đinh của Nguyễn Khải và người vợ quá cố. Từ nhỏ đến lớn, ông chưa từng nỡ đánh đứa con này dù chỉ một roi. Tuy rằng được cha hết mực cưng chiều, nhưng Tuấn sinh ra đã thông minh hiểu chuyện, không bởi vì cha xem mình như bảo bối mà cậy thế lộng hành. Không những vậy, từ năm mười lăm tuổi chàng đã thay cha mình cầm quân, càn quét hết vùng bình nguyên quanh núi Thiên Sơn, đuổi sạch bọn địa chủ, ác bá ra khỏi khu vực này. Đồng thời Tuấn còn mở lời, nên Nguyễn Khải mới chủ động trao trả ruộng đất giúp dân đen dưới núi tái định cư. Chính nhờ thế, nên dù mang cái danh quân thảo khấu, là cái gai trong mắt của triều đình Xích Nam nhưng bang Hổ Thiên lại rất được lòng dân chúng. Thậm chí, dân làng còn nhiều lần âm thầm truyền báo tin tức, giúp các tiểu đội trong bang khi ra ngoài làm nhiệm vụ, tránh được các đợt truy quét gắt gao từ quân tinh nhuệ Xích Nam triều.
Nguyễn Khải lúc này đang cùng một đội nhỏ khác đang truy tìm con trai mình ở phía tây gần vực thẳm. Vừa nghe thằng Mậu thông báo đã tìm được Cậu Cả, ông như con trâu điên chẳng quan tâm chuyện gì khác, cứ thế hùng hục chạy về hướng đối diện. Ở bên này, đám binh lính bang Hổ Thiên cũng không mất quá nhiều thời gian để mang Nguyễn Tuấn lên từ dưới vách vực sâu. Vừa mới đặt Cậu Cả xuống đất. bên tai bọn chúng đã vang lên tiếng “sư tử rống”.
“Tuấn ơi, con sao rồi? Mẹ cái bọn chúng mày, tránh ra coi!” Nguyễn Khải vừa đến nơi đã nhào tới hất bay vài tên lâu la ra một bên, sau đó vội kiểm tra mạch đập của Nguyễn Tuấn. Khi nghe được hơi thở chàng to rõ, tim đập tương đối bình ổn ông mới thở ra một hơi nhẹ nhõm.
Ở tuổi ngũ tuần, Nguyễn Khải vẫn giữ được dáng dấp vạm vỡ của người luyện võ, lưng hùm vai gấu, mái tóc buông xõa như bờm sư tử, trên cổ đeo chuỗi răng thú khá nặng nề, trông cực kỳ oai vệ. Trước ngực ông cũng xăm một đầu cọp lớn tương tự những người khác, đây chính là biểu tượng của bang Hổ Thiên.
"Chúng bay còn đứng đó lề mề cái gì? Mau đưa Cậu Cả về thành, gọi thầy lang đến xem bệnh ngay!"
Biết con mình tạm thời vô sự, Nguyễn Khải quay phắt lại, trầm giọng quát lớn.
Đám thuộc hạ giật mình, vội vã gật đầu răm rắp, rồi tất tưởi mang chõng tre tới cẩn thận nâng đặt Cậu Cả lên trên. Đến khi mặt trời vừa lên cao tới lưng chừng núi, thì cả đội quân bang Hổ Thiên đã an toàn mang theo Cậu Cả của mình trở về thành.
Đỉnh Thiên Sơn cao cả trăm trượng [1] nằm ở hướng bắc Xích Nam quốc. Núi cao chót vót khuất trong mây, từ đỉnh phóng tầm mắt về phương nam có thể trông xa tận thành lớn Gia Ninh của Xích Nam, cách đây đâu đó tận hơn nửa ngày đường. Nhìn sang đằng tây lại thấp thoáng bóng dáng thành Khải Liên của Hoàng triều La Phổ. Chuyển qua đằng bắc thì gặp ngay ải Thiên Môn, là chốt chặn của Bắc triều Đại Chu. Nhìn theo hướng mặt trời mọc có thể mơ hồ trông thấy cửa biển Hàn Mộc, xa hơn chút nữa là khu thương cảng Mễ Hạ thuộc quản lý của Quốc đảo Đông Hòa. Nơi này chính là tụ điểm giao thương cực kỳ đông đúc của bốn quốc gia trên lục địa Tứ Liên.
Thiên Sơn không chỉ bất khả xâm phạm nhờ độ cao chót vót, mà còn bởi địa thế độc nhất vô nhị của nó. Núi này như tàn tích của một ngọn núi lửa khổng lồ, vách đá dựng đứng vươn thẳng trời xanh, bao bọc lòng chảo phẳng lì bên trong. Đất đai nơi đây màu mỡ, sông hồ dồi dào, đủ để vài ngàn quân tinh nhuệ của bang Hổ Thiên tự cung tự cấp, dù bị vây hãm cả năm cũng chẳng lo thiếu thốn. Hơn thế nữa, Thiên Sơn nằm ở trung tâm lục địa Tứ Liên, vì vậy nếu có quốc gia nào chiếm được ngọn núi này thì gần như nắm trọn thiên hạ trong tay. Thế nên các quốc gia láng giềng luôn kìm kẹp lẫn nhau, không ai muốn đối thủ đoạt lấy vị trí chiến lược này. Nhờ đó bang Hổ Thiên càng thêm vững chãi, khó bị bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào thâu tóm được.
Bên trong bang Hổ Thiên, hiện tại đã là ngày thứ năm kể từ khi Nguyễn Tuấn được cứu trở về, nhưng chàng vẫn nằm bất tỉnh. Nguyễn Khải ban đầu còn sợ con trai mình có bị nội thương hay không, nhưng khi cho thầy lang thăm khám thì tất cả đều khẳng định cơ thể Cậu Cả cực kỳ tốt, một vết thương nhỏ cũng chẳng có, thậm chí còn mạnh khỏe hơn cả người bình thường! Bắt bệnh không ra, bọn họ cũng chỉ kê vài than thuốc bổ hồi khí tĩnh thần cho Nguyễn Tuấn, báo rằng chỉ vì chàng gặp phải kinh sợ nên mới tạm thời chưa tỉnh lại.
Đến sáng ngày thứ sáu, khi ánh trăng còn lấp ló sau hè, bầy gà mới nhảy xuống khỏi chuồng thì thằng Mậu, hộ vệ thân cận của Nguyễn Tuấn như thường lệ cũng vừa hoàn tất việc vệ sinh thân thể cho chàng xong. Nó bê chậu nước định bước ra khỏi phòng thì một tiếng thở hắt khẽ vang lên làm cu cậu giật mình ngừng lại. Lúc quay mặt nhìn qua thì đã thấy Tuấn ngồi chần ngần trên giường, mắt chàng trợn trừng nhìn nó trông như bị quỷ nhập. Mậu giật mình, lông tơ dựng ngược, cái môi mỏng hơi khô ráp của nó cong lên hét lớn:
“Bớ người ta, Cậu Cả đi dạo địa phủ bị ma ám, mau gọi thầy pháp!”
Thằng này mang danh làm cướp nhưng tính tình từ nhỏ đã sợ chết, có lẽ nhờ thế nên trời phú cho nó cái bản lãnh chạy nhanh không ai bằng. Chính bởi vậy, mọi lần ra trận đánh cướp, nó đều được Nguyễn Tuấn giao cho nhiệm vụ đi thu dọn hiện trường. Lời Mậu còn chưa dứt thì đã thấy nó chạy ra tới cổng biệt phủ rồi. Mặt mày Mậu xám ngắt, cái bộ cao lều khều của nó lúc này trông như con bọ que, đang cố gắng khua tay múa chân ra hiệu cho đám lính gác ở gần đó tới ứng cứu mình.
Bên trong phòng riêng, Nguyễn Tuấn đúng như Mậu thấy cũng chỉ vừa mới tỉnh dậy tức thì. Chàng hơi mệt mỏi ngồi thừ ra trên giường, hai luồng ký ức của hai kiếp nhân sinh lúc này mới hoàn toàn hòa hợp khiến ánh mắt bình tĩnh thường ngày của chàng hiện tại có thêm phần tang thương, mất mát.
Tiếng “kẽo kẹt” vang lên, Nguyễn Tuấn khoác hờ chiếc áo choàng mở cửa bước ra sân. Thấy Mậu la lớn điếc cả tai, chàng hơi nhăn mặt, nhoáng cái đã xuất hiện ngay sau lưng Mậu.
“Thằng dở hơi, mày mới bị ma nhập đấy! Mày thấy con ma nào đẹp mã như cậu chưa?”
Tuấn như đùa như thật, chậm rãi hỏi.
Mậu bị đánh đau vội nhảy dựng ra sau, nhưng khi nghe thấy âm giọng cùng ngữ điệu quen thuộc của Cậu Cả nhà mình, nó mới hoàn hồn vội khom lưng ôm ngang hông của Nguyễn Tuấn, mếu máo than:
“Ôi Cậu Cả tỉnh dậy rồi! Cậu làm con lo quá, nhỡ Cậu mà có chuyện con biết phải làm thế nào đây!!!”
“Mày bớt nịnh nọt cho tao nhờ. Cha tao đâu? Dẫn tao qua gặp ông, tao có chuyện cần bàn.”
“Dạ, chắc giờ này bang chủ đang ở trong phủ chính.”
Nghe Mậu đáp, Nguyễn Tuấn cũng không nói gì thêm liền chủ động rời khỏi biệt viện, nhắm hướng phủ Thủ Lĩnh mà đi.
Bên trong sảnh đường rộng rãi, nơi này trang trí khá đơn giản, chỉ có hai hàng ghế dùng để tiếp khách, một ít tranh thủy mặc cùng với vài chậu cây nhằm điểm thêm ít sinh khí trong phòng. Nguyễn Khải bây giờ đang ngả lưng trên trường kỷ đặt cạnh ghế chủ vị, sắc thái có phần uể oải, trông tiều tụy hơn rất nhiều so với vài ngày trước.
Kể từ ngày Nguyễn Tuấn gặp nạn, chẳng có đêm nào ông được ngủ ngon giấc, lại còn phải bận bịu xử lý chính sự trong bang khiến ông càng thêm mệt mỏi. Nguyễn Khải vừa định nhoái người cầm lấy tách trà, ánh mắt vừa vô tình đảo ra trước cửa thì đã thấy thằng con mình, đang nhàn nhã từ ngoài sân bước vào. Ông hơi sững người thoáng chốc rồi đứng bật dậy, lao tới ôm chầm lấy Tuấn, vung cánh tay thô to vỗ mạnh vào lưng chàng, nói:
“Ha ha thằng nhóc này, mày làm cha lo chết đi được!”
Nguyễn Tuấn dù đã nhớ lại ký ức tiền kiếp, nhưng đời này hắn cũng đã trải qua một quãng thời gian sống cùng cha và các anh em trong bang ở thế giới mới, vì vậy nên hiện tại tình cảm lẫn thái độ của chàng đối với mọi người vẫn vẹn nguyên như trước. Biết cha lo lắng cho mình, chàng cũng thuận thế ôm lấy ông rồi khẽ giọng: “Cha yên tâm, con trai cha không dễ đi vậy đâu, ha ha.”
Nguyễn Khải gõ lên đầu chàng một cái rõ đau, miệng thì vừa cười lớn vừa nói: “Mày bớt buông lời xui xẻo, vô đây ngồi xuống đi rồi nói chuyện.”
Nghe cha nói, Tuấn cũng không có gì phải câu nệ. Đợi ông ngồi lại trên trường kỷ, chàng cũng nhanh chóng yên vị bên cạnh ghế chủ vị, sau đó mới kéo thấp giọng hướng cha mình nói:
“Thưa cha, lần này con gặp nạn lớn nhưng may mắn thoát được một kiếp. Vốn mọi chuyện có lẽ là do may mắn, nhưng tối qua con lại nằm mơ có một vị đức cao trọng vọng đạp mây tới dặn rằng ngài là người trời cử xuống, thấy con gặp nạn nên tiện tay cứu giúp, bảo con sau khi tỉnh dậy nhớ trả lễ tạ ơn, lập đền thờ phụng trả cái ơn trên trước này!”
Nguyễn Khải là dân luyện võ, ông vốn chẳng tin mấy chuyện thần tiên ma quỷ này cho lắm. Nhưng lời do con trai mình nói ra nên ông cũng chiều theo, lập tức hướng ra bên ngoài, trầm giọng gọi: “Phi Bình, ông vào đây tôi nhờ chút việc.”
Nghe tiếng gọi, Phi Bình canh chừng ở bên ngoài cũng nhanh chóng bước vào. Y là anh em vào sinh ra tử của Nguyễn Khải, kiêm luôn chức vụ Quản Sự, quản lý các công việc lớn nhỏ trong thành Thiên Sơn. Tuy đều là dân chém giết, nhưng dáng dấp của Phi Bình thì dong dỏng, tóc búi cao gọn gàng, trông giống người đọc sách hơn là một tên khát máu khét tiếng trong bang Hổ Thiên.
“Bang chủ, ngài gọi tôi?”
“Đúng rồi, ông cho người chuẩn bị bàn tế lễ. Ngày mai chúng ta tổ chức cúng lễ tạ ơn trên, cảm ơn các ngài đã phù hộ cho con trai tôi bình an vô sự.”
Nghe Nguyễn Khải ra lệnh, Phi Bình vội chắp tay định rời đi thì Nguyễn Tuấn đã cản lại, ậm ừ nói thêm: “Thưa cha cùng chú Bình, chuyện này… trong mơ, vị kia bảo con rằng ngài ấy muốn chúng ta lập đền thờ phụng, không phải chỉ là cúng tạ lễ như thông lệ.”
“Thờ phụng?”
Nguyễn Khải nhướng mày tỏ vẻ nghi ngờ, sau đó ông lại lắc đầu, nói tiếp:
“Con à, theo lễ nghi ngàn đời của lục địa Tứ Liên, việc thờ phụng chỉ dành cho gia tiên trong dòng tộc, không có ngoại lệ. Người ngoài, cùng lắm chỉ được lập bàn tạ lễ. Đây là phong tục bất biến, không thể thay đổi.”
Nghe ông nói vậy, Nguyễn Tuấn rất đỗi ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên chàng nghe tới chuyện này, đúng hơn là trong hai mươi năm đã qua, Tuấn không để tâm tới việc cúng kiếng - thờ phụng nên bây giờ mới phải bất ngờ như vậy. Sau thoáng chốc sững sờ, chàng định cố gắng thuyết phục cha thì Phi Bình đứng cạnh cũng chen ngang, khuyên giải:
“Cậu Cả, chuyện này có thể cậu không biết, nhưng thật sự tổ huấn ngàn đời nghiêm cấm con cháu thờ ai ngoài gia tiên. Thời trước, khi tôi còn trẻ có nghe các cụ ngâm bài thơ rằng:
Đền này chỉ phụng gia tiên
Không thờ dị khách, đảo điên cõi trần
Trời này gốc cội minh phân
Ngoài kia dị thổ vạn lần đừng mong
Dân ta nếu dám sai lòng
Lôi đình giáng tội, thân không vẹn toàn.”
Đoạn, y lại kéo thấp giọng rồi nói thêm: “Cậu còn trẻ nên những chuyện này có lẽ chưa ai nói qua. Nhưng tôi nghe đồn, núi Thiên Sơn chúng ta có dạng hình như hiện tại cũng chính là bị trời phạt, vì có kẻ dám thờ phụng ‘thứ’ khác.”
“Nhưng mà…”
Nguyễn Tuấn vừa định nói gì thêm đã bị cha chàng ngắt lời: “Được rồi Tuấn, mọi chuyện cha đều có thể nghe con, nhưng riêng việc thờ tự bất kỳ ai dù là Thần Thánh đi chăng nữa, nếu không nằm trong gia tiên chúng ta thì con không cần nói. Thôi, chuyện này dừng ở đây! Bình, ông cứ làm theo những gì tôi vừa dặn là được.”
Thấy ý cha mình đã quyết, Nguyễn Tuấn cũng đành thở dài tạm bỏ qua chuyện này. Đợi Phi Bình rời khỏi sảnh nghị sự, trong phòng chỉ còn lại hai cha con thì Nguyễn Khải mới thở dài nói:
“Con cũng đừng trách cha, đây là lời dạy của tổ tiên, chúng ta là phận con cháu không thể làm trái được!”
“Con hiểu, thưa cha!”
Đoạn, ông lại hỏi thêm: “Con nghĩ chuyện mình gặp nạn lần này thế nào?”
“Ý cha là sao?”
“Tên tướng lĩnh hộ tống Mị nữ [2] Xích Nam, lại bỏ mặt cô ta để liều chết kéo con theo. Con cảm thấy việc này chỉ là ngẫu nhiên hả?”
“Nghe cha nói con mới nhớ, tên kia quả thật có vấn đề.” Nguyễn Tuấn trầm ngâm thoáng chốc, rồi đáp.
“Cha sợ… trong này có âm mưu của kẻ khác.”
Bình luận
Chưa có bình luận