Chương 1: Hai Mươi Năm.
Núi Thiên Sơn của nước Xích Nam mùa này ngày nào cũng đẹp. Vừa về chiều, nền trời đã ửng hồng như đôi má đào của thiếu nữ đôi mươi. Mây trắng bồng bềnh khác chi tiên nữ hạ phàm, đương tản bộ nhàn nhã lại bị đám cò trắng láu cá bay ngược nắng đâm sầm vào, xé rách ra thành từng mảnh. Có lẽ, chúng cũng đang vội vã trở về tổ ôm ấp nhau sau một ngày dài rong ruổi mưu sinh. Nhìn xuống dưới núi, đập ngay vào mắt là cánh đồng lúa nước vàng rực đã vào mùa gặt.
Trông kỹ hơn chút, trên triền đê cỏ xanh mướt ngay cạnh cánh đồng, lúc này còn thấy vài đứa nhóc đang chạy nhảy đuổi bắt nhau, có lẽ cũng sắp sửa tới giờ để chúng dắt trâu về nhà. Bên trong ngôi làng đông đúc dưới núi, nhà nào giàu thì lợp ngói âm dương, kẻ nghèo hèn cũng nhà tranh vách đất. Trời đương còn nắng nhưng nhiều hộ đã bắt đầu nổi khói lam chiều, gió thổi vi vu thoảng mùi rơm rạ tản ra xa, vừa thơm vừa khét bay ngược lên tận trên núi.
Lúc này tại một con đường mòn, nằm ở khu đất trống ngay cạnh mép vực nơi lưng chừng núi Thiên Sơn, đương là một tràng hỗn loạn. Tiếng đao kiếm va nhau chát chúa, lẫn với âm thanh kêu la gầm rú của hai đoàn người làm chấn động cả một mảnh rừng.
“Giếttt…! Chúng bay đâu, giết hết mấy thằng lính triều đình trả thù cho thằng Cả!”. Tên đồ tể đang ngồi trên lưng ngựa gầm lên. Gã bây giờ tựa như ma thần, dẫn đầu băng cướp càn vào đám lính giáp sắt chỉnh tề phía trước. Đằng sau gã là cả trung đội hơn trăm tráng niên bặm trợn, râu ria xồm xoàm, tay cầm đao, kiếm, giáo, mác… đủ loại. Trên ngực vài tên còn lộ rõ hình xăm đầu hổ giống hệt nhau, hiển nhiên là cùng một nhóm người.
Đứng phía đối diện, đội quân triều đình vây quanh bảo vệ một chiếc kiệu lớn. Đám binh lính dù mặc giáp sắt chỉnh tề, số lượng cũng áp đảo quân địch, nhưng hơn năm trăm người bọn họ bây giờ đều run cầm cập, tay cầm vũ khí mà chẳng có chút ý chí chiến đấu. Chỉ thấy từng khuôn mặt xám ngoét, mồ hôi túa ra trên trán, ánh mắt chúng hoang mang chẳng giấu nổi sự kinh hoàng. Nếu không phải đang bị đám cướp vây chặt tứ phía, e rằng toàn bộ đám lính đã sớm quăng giáp, vứt gươm mà tháo chạy khỏi nơi tử địa này.
Tướng quân bọn chúng đã chết, nói đúng hơn là y liều mình, ôm lấy con trai cả của thủ lĩnh bang cướp Hổ Thiên rồi lao xuống vực thẳm. Hiện tại e rằng đến cái xác cũng chẳng còn mà vớt, huống gì nghĩ đến chuyện sống sót giữ mạng! Đám binh lính mất tướng lĩnh chẳng khác gì rắn mất đầu. Còn ở chiều ngược lại, quân thảo khấu dù không còn Cậu Cả chỉ huy, nhưng chúng vẫn có một kẻ cầm trịch khác là Phó bang chủ, cũng chính là kẻ vừa rống lên rồi dẫn đầu băng cướp xông vào chém giết. Có người cầm quân, cả đám thảo khấu như bầy trâu điên bị kích động, sát khí ngùn ngụt bốc lên tận trời, cắm mặt cắm mày không sợ chết xông tới, thề phải tắm máu đám quân triều đình để báo thù cho Cậu Cả chúng nó.
Loạn chiến cứ thế lần nữa bùng nổ. Đao kiếm vung lên, máu bắn tung tóe, xác người như ngã rạ. Tiếng rên rỉ, tiếng gào thét xen lẫn âm thanh vũ khí va chạm chát chúa, tất cả hòa thành một bản hòa tấu chết chóc, chiến cuộc nghiên hẳn về phía bang Hổ Thiên. Chỉ vài cái tích tắc trôi qua, máu đỏ đã lan tràn lẫn vào từng thớ đất, hòa với bùn nhão tạo thành một vũng sình đặc quánh. Mùi máu tanh nồng, mùi thịt khét lẹt và cả mùi quần áo cháy sém của đôi bên, tất cả cứ thế trộn lẫn vào nhau, khiến không khí nơi này nặng nề như rơi vào "tầng địa ngục thứ mười chín".
*
Bên dưới vực thẳm, nơi vị tướng lĩnh và Cậu Cả của quân cướp cùng rơi xuống. Trời bây giờ đã chạng vạng âm u, mây mù giăng kín lối. Gió bất ngờ gào rú, len lỏi qua từng vách đá dựng đứng, mang theo hơi ẩm vốn có của tiết xuân, đạp cho mảnh mây lớn dạt vào một góc. Cũng chính nhờ thế, nên mới để lộ ra giữa thân cây dương mọc chênh vênh nơi lưng chừng núi nằm đó một thanh niên độ hai mươi tuổi, bị mắc lại trên cành. Chàng ta mày rậm mắt to, râu quai nón phủ kín mặt, khiến thanh niên trông già hơn khá nhiều so với tuổi thật của mình. Ngực chàng bị cành dương đâm thủng, xuyên ngay giữa hình xăm đầu hổ. Dòng máu đỏ thẫm từ vết thương đã đông đặc, thấm vào vỏ cây dương sần sùi tạo thành những vệt tối sẫm ghê rợn. Dưới ánh nắng le lói cuối ngày, từng cơn gió thoảng qua mang theo mùi máu tanh tưởi hòa lẫn vào không khí, nhanh chóng dẫn dụ bầy kiến bâu lại đông nghẹt. Chúng cứ thế ra sức cắn xé, tận hưởng bữa tiệc chiều “thịnh soạn”, hiếm gặp này.
Bất chợt, cánh tay chàng ta khẽ động. Cơn đau từ ngoài da thịt, lẫn với nỗi đau tận sâu trong linh hồn cùng lúc bùng lên dữ dội, như ngàn vạn lưỡi dao bén ngọt cứa vào từng thớ thịt của chàng. Cơ thể Cậu Cả co giật kịch liệt, đôi môi tái nhợt tràn ra dòng máu tươi nóng hổi, nhỏ trên những phiến lá dương đang dần rũ xuống theo ánh chiều tà. Lồng ngực Cậu Cả vừa ngừng chảy máu chưa lâu, bây giờ theo từng cơn co giật, vết thương vừa cầm máu lại lần nữa bị xé rách, huyết đỏ nhanh chóng trào ra thành dòng, thấm đẫm cả vạt áo vải.
“Ngọc Hoa…!!!”
Đôi mắt Cậu Cả bất giác trợn trừng, như thể vừa bị lôi ra từ cơn ác mộng. Lồng ngực chàng phập phồng dữ dội, hơi thở gấp gáp như muốn nuốt trọn từng ngụm khí lạnh nơi vực sâu. Theo bản năng, chàng bật dậy, vô thức rút thân thể ra khỏi cành dương. Vết thương nơi ngực tưởng chừng sẽ làm cho Cậu Cả đau đến chết đi sống lại, nhưng lúc này một cảnh tượng quỷ dị đến rợn người, không có điềm báo bất ngờ xuất hiện. Lỗ thủng lớn bằng ba bốn ngón tay, bây giờ như có dòi bọ lúc nhúc bên trong, bằng mắt thường cũng có thể nhìn thấy nó đang dần khép lại. Với tốc độ này, e rằng chỉ trong một hai canh giờ [1] tới, sẽ chẳng còn ai nhận ra rằng chàng ta vừa bị cành cây xuyên thủng lồng ngực nữa.
“Thần… xin ngài hãy cứu chúng con!”
“Aaaa… Thần, xin ngài hãy hiển linh…!”
“Tại sao? Tại sao ngài lại bỏ rơi chúng tôi! Xin Thần hãy hiển linh cứu giúp ngàn vạn Lạc dân thoát khỏi tai kiếp này! Xin Thần!”
“Aaaa… thần đã bỏ rơi chúng ta. Hắn bán rẻ đức tin chúng ta dành cho hắn, hắn không xứng là thần, hắn là ma quỷ…! Đập tượng, đốt đền thờ hắn đi… hắn là ma quỷ, hắn là ma quỷ!!!”
Đầu Cậu Cả bắt đầu ong lên những âm thanh quỷ dị. Chàng nghe thấy lời căm phẫn của vô số Lạc dân, bọn họ hận chàng, hận kẻ mà họ hết lòng thờ phụng lại đành tâm để quân giặc đồ sát khắp nơi, giết ngàn vạn người mà chàng chẳng hề xuất hiện cứu độ. Bọn họ hận chàng vì mặc cho bọn họ giãy giụa trong cơn tuyệt vọng, Thần của bọn họ vĩnh viễn không xuất hiện. Bọn họ hận chàng, hận cho đến khi máu họ ngừng chảy, hận cho đến khi sinh mệnh họ kết thúc, họ vẫn sẽ hận chàng.
Từng đoạn ký ức không liền mạch trong đầu Cậu Cả cứ thế dần hiện ra. Ban đầu yếu ớt như mạch nước ngầm rả rích, dần dần lại mạnh mẽ như sóng biển trào dâng, cứ liên hồi liên tục, nối tiếp nhau tưởng chừng như vô cùng vô tận. Liền sau đó, chàng thấy bản thân đã trèo lên từ trong mộ đá được chôn dưới ngọn núi cao tên là Tản Viên. Chàng nhớ từ rất xa xưa trước đó, chàng cũng có cha có mẹ, họ đặt tên cho chàng là Nguyễn Tuấn – Tuấn trong Tuấn Kiệt. Nhưng vợ chàng lại không công nhận điều này, nàng bảo phải gọi chàng là Tuấn Ái - Ái trong Ái Đả [2]. Nàng bảo chàng là kẻ thích gây sự, thích bị ăn đòn, nhưng cũng bởi vậy mà nàng yêu chàng. Nàng yêu chàng đến quên cả sinh mạng mình, yêu chàng cả đến khi nàng nằm co ro trong lòng chàng mà trút hơi thở cuối, nàng vẫn yêu chàng.
Nhưng đó đã là những chuyện của quá khứ xa xưa, chuyện ở tận cái khi mà Văn Lang vẫn còn tồn tại. Cho đến lúc Nguyễn Tuấn lần nữa sống lại thì mọi chuyện đã đổi thay! Văn Lang bị diệt rồi, Âu Lạc cũng tẫn mệnh. Sau gần ngàn năm nằm sâu trong lòng đất, chàng như “quỷ ma” cứ thế đội mồ sống dậy, bò lên trong đống xương xẩu của ngàn vạn thế hệ Lạc dân đã ngã xuống.
“Aaaaaa...!”
Tiếng thét đau đớn của Nguyễn Tuấn như muốn xé nát không gian tĩnh mịch. Làm cho bầy quạ vừa trở về tổ sau một ngày dài cũng phải giật mình hoảng hốt, vội vàng vỗ cánh bay tán loạn, như những u linh vừa nhoáng lên đã bị màn đêm phía xa hoàn toàn nuốt chửng. Nguyễn Tuấn quằn quại, đôi mắt chàng trắng dã vô hồn. Đầu óc chàng quay cuồng như bị nhấn chìm trong cơn “thủy triều ký ức”. Dường như nó muốn cuốn phăng cả ý thức lẫn linh hồn của Nguyễn Tuấn vào vực sâu vô định nào đó, không để chàng có cơ hội lần nữa nhớ lại chuyện xưa.
Cơn đau từ lồng ngực xuyên thẳng vào tận tâm can, như từng lưỡi dao vô hình cứa nát linh hồn chàng. Hơi thở Nguyễn Tuấn dồn dập, ngực phập phồng rồi bất chợt nghẹn lại. Chàng như một con rối đứt dây, lại lần nữa gục xuống cành dương không biết sống chết thế nào.
*
Cõi Địa phủ hai mươi năm trước.
Giữa biển ma hồn quỷ vật cuồn cuộn như sóng dữ, Nguyễn Tuấn đứng sừng sững tựa một pho tượng đồng cực kỳ nổi bật trong cõi u minh. Thân giáp sắt lạnh buốt ánh lên trong bóng tối, tay chàng siết chặt Tản Viên phủ, hơi thở nặng nề cùng ánh mắt lộ rõ sát khí khiến hằng hà sa số hồn ma xung quanh không ngừng gào rú, lùi lại trong sợ hãi.
"Ngọc Hoa!" Chàng thét lên, giọng khàn đặc xuyên qua làn sương lạnh. "Ngọc Hoa, nàng ở đâu?"
Nguyễn Tuấn lao vào giữa đám u linh, điên cuồng chém giết ngàn vạn ma binh dám cản chân mình. Chàng không ngừng tiến về phía trước, muốn lật tung mọi ngóc ngách mà bản thân có thể tìm đến. Nhưng càng chạy, bóng dáng người chàng kiếm tìm càng trở nên mơ hồ, ký ức về nàng lại càng nhạt nhòa tựa hơi nước trên gương, bất kỳ lúc nào cũng có thể biến mất!
Bất chợt, một tiếng hừ lạnh vang lên.
“Dương gian kẻ khóc gọi người, địa phủ kẻ khóc gọi hồn. Kẻ sống thì không buông, kẻ chết cũng chẳng đành. Quả nhiên là một mối nghiệt duyên…”
Giữa làn sương mờ, Đầu Trâu và Mặt Ngựa từ từ hiện ra. Thân chúng cao hơn chục thước [3], da đen như mun, đôi mắt thì đỏ rực tựa hòn than đang cháy âm ỉ. Vừa xuất hiện, cả hai đều giương mắt nhìn Nguyễn Tuấn với vẻ dửng dưng, tựa đã trông thấy quá nhiều lần những kẻ ngông cuồng lầm đường lạc lối như thế này.
“Nói cho tôi biết, vợ tôi ở đâu? Nếu không, hôm nay dù đánh đến phủ Địa Mẫu, Tản Viên Sơn Thần tôi thà chết chứ quyết không từ bỏ!!!” Ánh mắt Nguyễn Tuấn sắc lạnh, giọng nói chàng mang vẻ bất cam, lời cuối cùng còn gằn giọng lộ rõ ý quyết tử.
Đáp lại lời này, Đầu Trâu nhẹ giọng khuyên giải: “Sơn Thần, ta nói mi hà cớ gì phải làm vậy? Vợ mi đã chuyển thế ngàn năm, bây giờ cũng qua hơn mười kiếp nhân sinh rồi. Mọi ký ức về mi, chắc chắn nàng đều đã quên sạch, mi cớ chi phải tự làm khổ mình! Nghe ta, hãy trở về cõi trần làm theo di chỉ của các Tiên, cố gắng dựng lại Thần vị đất Văn Lang…”
Lời hắn còn chưa dứt, Nguyễn Tuấn đã giận dữ cắt ngang, gằn giọng đáp: “Ông câm mồm. Mười đời có xá gì? Dù cho trăm kiếp tôi cũng sẽ tìm nàng về! Nếu không có nàng, há tôi có thể sống đến bây giờ ư?”
Nói đến đây, giọng Nguyễn Tuấn chùng xuống, mặt này ảo não. Hơi ngừng lại thoáng chốc, chàng thở hắt ra một hơi rồi mới tiếp tục: “Việc dựng lại Thần vị tôi nhất định sẽ làm, nhưng trước đó tôi cần tìm vợ mình. Nếu bất thành, hãy để các vị khác thay tôi thực hiện di chỉ của các Tiên. Nguyễn Tuấn tôi chấp nhận vĩnh viễn bị giam dưới 18 tầng địa ngục để đền tội!”
“Được rồi, mi thích thì chúng ta cho mi cơ hội.” Mặt Ngựa như mất kiên nhẫn, trầm giọng nói.
Đoạn, hắn quay qua Đầu Trâu phất tay ra hiệu: “Đem hắn đi.”
Dứt lời, bọn họ cũng không đợi Nguyễn Tuấn phản kháng đã vung ra sợi xích trói hồn, sau đó mạnh bạo chộp lấy cánh tay, kéo lê chàng đi giữa biển u linh. Nguyễn Tuấn cũng không chống cự, cứ vậy để mặc cho Đầu Trâu cùng Mặt Ngựa giải mình xuyên qua Thập điện Diêm La, đi tới đài Vãng Sinh [4]. Cho đến khi trong tầm mắt của chàng xuất hiện một tảng đá đen sì, lơ lửng giữa không trung thì bọn họ mới ngừng lại.
Đầu Trâu nghiêm giọng nói: “Đây là Đá Lưu Niệm, ký ức mười kiếp của vợ mi đều được lưu giữ tại đây.”
Đoạn, hắn phất tay ra hiệu cho Nguyễn Tuấn rồi bảo: “Đưa nỗi nhớ của mi vào trong, mi sẽ tìm được thứ mình muốn.”
Tim Nguyễn Tuấn run lên, nở nụ cười đầy vẻ háo hức. Chàng không chút chần chừ, lập tức làm y theo lời Đầu Trâu. Trên mặt đá, những ký ức xa xăm mờ ảo hiện lên, như dòng sông chứa đựng thời gian chảy ngược về quá khứ. Nguyễn Tuấn nín thở, ánh mắt chăm chú dõi theo, tim đập thình thịch khi hình bóng người vợ chàng ngày đêm nhung nhớ dần xuất hiện.
Nhưng Nguyễn Tuấn còn chưa kịp nhìn rõ thân ảnh bên trong màn sáng kia, thì Mặt Ngựa bỗng cười gằn gầm lên dữ tợn:
“Ha ha Sơn Thần. Đại nạn của mi giờ mới bắt đầu. Cút khỏi đài Vãng Sinh, tới nơi mi cần tới đi!”
Vừa dứt lời, hắn lập tức vung chân.
Ầm!
Cú đá trời giáng đập thẳng vào ngực Nguyễn Tuấn. Cả người chàng bắn ngược ra sau, rơi thẳng xuống đài Vãng Sinh.
HẾT CHƯƠNG 1.
Chú Thích:
[1] Một canh giờ thời xưa tương ứng với 2 tiếng đồng hồ thời hiện đại.
[2] Ái Đả: Từ ghép - Ái nghĩa là yêu thích; Đả là Đánh. Ái Đả tức “thích bị đánh”, ý chỉ lời lẽ, hành động của người này dễ làm người khác tức tối, hờn giận... Có tham khảo, tra cứu từ điển Hán - Việt tại web Thivien.net
[3] Thước: Một thước bằng 40cm.
[4] Thập điện Diêm La và đài Vãng Sinh: Tác giả có tham khảo dựa theo truyền thuyết về Mẫu Tứ Phủ, đồng thời cũng có cải biên đôi chút để phù hợp với bối cảnh truyện. Tham khảo trực tuyến thêm truyền thuyết này tại ĐÂY.
Bình luận
Chưa có bình luận