Sự gắn kết. Bây giờ tôi đã hiểu được sự gắn kết mà một cuộc hôn nhân mang lại. Đó không phải chỉ là một tờ giấy, một chiếc nhẫn trên ngón áp út, nó là sự ràng buộc giữa linh hồn, một sự kết hợp sâu sắc giữa hai con người với nhau. Đó là sự kết nối, nhân chứng cho những điều của tương lai, định hình lẫn nhau. Giống như thể cánh cổng tâm hồn được nối lại bằng hai chiếc nhẫn ở nơi ngón tay nối liền tim, cho phép mọi thứ của họ hòa nhập và chảy thành một.
Hòn đảo hiện lên như một giấc mơ trong làn sương biển mờ mịt và mùi tươi của muối và rong trong không khí. Đó là nơi tôi từng hình dung rằng sẽ là giấc mơ cuối cùng mà tôi được phép có trong những ngày còn lại của cuộc đời. Tuy nhiên, giờ đây, lần nữa trở về với mọi giấc mơ đều đã thành sự thật, mọi cảm giác nặng nề mà tôi từng có khi lần đầu đặt chân lên hòn đảo đều biến thành sự thanh bình và hạnh phúc. Có lẽ những bóng đen về tương lai và tàn dư của một tâm hồn đầy sợ hãi đã trở thành sự bình thản.
Chúng tôi đi thăm mộ bà Năm, cả quãng đường Lê Duy An đều cười như một gã ngốc. Gặp mấy cô chú ở làng, gã cũng lớn tiếng mà báo rằng tôi và gã đã kết hôn. Mỗi lần tôi nghe được tiếng cười vang lên như tiếng chuông và giòn như những cái bánh quy mùa giáng sinh của gã bên tai thì giống như có gì đó trong tôi tan ra, chảy thành một dòng nước ấm quanh trái tim tôi. Đó là khuôn mặt hạnh phúc của người tôi yêu, đó là khung cảnh mà ngay cả một giấc mơ tôi cũng chẳng thể mong rằng sẽ có được.
Những ngày tháng trôi qua thật nhanh chóng, như thể cát trôi qua kẽ tay, giống như có một tên trộm nào đó đã trộm thời gian của tôi đi mất. Sau hai tháng, tôi ngồi ngoài hiên nhà, với sự bất động của đôi chân và sự run rẩy ở những ngón tay, hoàn toàn biến thành một người mà tôi luôn sợ hãi phải đối mặt. Vết thương khóc trong bóng tối một cách thầm lặng và để khóe miệng nhếch lên làm việc của nó. Mỗi hơi thở đều giống như trộn vụn thủy tính, gửi cơn đau đi khắp lồng ngực, sự tàn phá trong những lá phổi là lời tình thầm của thần chết đang cảnh báo tôi qua từng nhịp đập chậm rãi.
Tôi bám víu vào hy vọng mong mang rằng ông trời sẽ thương xót cho tôi mà nhân từ. Điều cuối cùng tôi muốn là Lê Duy An biết được cơn đau đang giằng xé của tâm trí và cơ thể tôi.
Tôi nhìn Lê Duy An, bóng gã trải dài trong sân trong khi đôi tay gã đang phơi quần áo lên đón nắng. Trong khi tôi đang ngồi trong mái hiên và điều khiển những ngón tay làm theo ý mình khi đang cố gắng chải tóc. Những cơn run rẩy của hai bàn tay cứ khiến tôi không thể cầm chắc lược hay thậm chí là tóc mình. Mặt trời soi xuống đất như một lời hứa về sự dịu dàng mà cuộc sống có thể mang lại, không cần quan tâm là bao lâu. Đã bao lần tôi tin vào sự dịu dàng của thế giới, chỉ để bị kéo lại vào vòng xoáy tàn khốc của hiện thực? Thời gian đã không còn quan trọng nữa. Thật ra, không có gì quan trọng nữa. Bản án đã được quyết định từ khi tôi vừa sinh ra.
Ánh mắt của Lê Duy An dịu lại khi quay sang nhìn tôi, đang ngồi cách đó vài bước. Trước ánh nhìn đó, tôi mỉm cười với gã.
Lê Duy An đến bên tôi, trên tay còn thoang thoảng mùi tươi mát của xà phòng từ quần áo vươn lại. Những ngón tay của gã nhẹ nhàng đặt lên trên đỉnh đầu của tôi, chạm vào mái tóc bị gió làm rối, mỗi một động tác đều chậm rãi và nhẹ nhàng.
"Sao nào?" Gã nhẹ nhàng hỏi, giọng thì thầm êm dịu, "Hôm nay em muốn anh chải tóc cho em không?"
Đôi mắt tôi mở to trong phúc chốc, sự ngạc nhiên và có chút gì đó không thể giải thích hòa lẫn trong dạ dày. Sau một giây, tôi khẽ gật đầu, để gã nhẹ nhàng đi vòng qua phía sau lưng tôi, để cả cơ thể chìm vào hơi ấm của người phía sau.
Đôi tay của Lê Duy An vươn ra, vuốt nhẹ lên tóc tôi, giống như thể đang cảm nhận một cách tỉ mỉ khi những sợi tóc tràn qua kẽ tay.
"Đau thì nói anh." Lê Duy An khẽ nói, những ngón tay khéo léo di chuyển trên tóc tôi với nhịp độ nhẹ nhàng vừa phải. "Sau này anh sẽ chải tóc cho em, được không?"
Sự im lặng bao trùm giữa chúng tôi, và tôi cảm nhận rõ sự tập trung của người phía sau. Một cái gì đó vừa sụp đổ, nhưng cũng có thứ đang nở rộ trong tôi.
"Anh biết chải tóc cho con gái sao?"
"Anh không biết chải tóc, nhưng anh nghĩ nó cũng không khó," gã nói, đôi tay tiếp tục di chuyển một cách thành thạo, "Nhưng hồi trước tóc anh cũng dài gần như bằng em mà."
Tôi quên mất điều đó. Lê Duy An trước khi rời đảo là một gã tóc dài và gã tự hào về mái tóc của mình như một tấm huân chương hay giải thưởng cao quý nào đó. Tôi khẽ cử động người một chút, "Nhưng anh chỉ toàn buột lại thành một chùm xấu xí phía sau thôi."
Lê Duy An cười khẽ một tiếng bên tai tôi, nói bằng chất giọng dịu dàng thủ thỉ như gió lùa qua kẽ lá, "Ừ thì anh sẽ học. Anh thích chải tóc cho em, giống như đàn ông hồi xưa vẽ mày cho vợ để thể hiện tình cảm, anh cũng muốn chải tóc cho em. Nó không phải điều lớn lao, nhưng nó rất có ý nghĩa với anh."
Khi gã hoàn thành bím tóc nhỏ, gã dùng một thứ dây chun màu đỏ được gắn nơ bên trên cố định lại. "Xong!" Gã nói, ngắm nghĩa tóc tôi như một tuyệt tác. "Đẹp hơn cả em làm."
Gã đi đến phía trước, đối mặt với tôi,đôi mắt của gã pha lẫn nhiều thứ cảm xúc phức tạp đến không thể gọi tên. Lê Duy An mỉm cười, nụ cười của gã chạm vào đáy mắt tôi.
"Cảm ơn." Tôi thì thầm, không biết trong lòng là loại cảm giác gì,chỉ thấy nó đang lộn nhào trong bùng như thể đang bị ai xiết chặt đến khó thở.
Gã nhẹ ôm lấy má tôi bằng đôi bàn tay to lớn của ga, hơi ấm lan ra từ những ngón tay đến bên trên làn da tôi. "Sau này không được giành chải tóc với anh nữa, nghe chưa?" Gã nói bằng giọng trêu chọc.
Tôi bĩu môi, mày khẽ nhíu lại. Tôi dựa vào cái chạm của gã trong một giây, sau đó lại lấy tay cầm lấy tay gã, đan chặt mười ngón tay của chúng tôi lại với nhau trong phút chốc, một nụ cười khẽ nở trên môi, "Em có muốn cũng không thể giành được." Tôi thì thầm trong hơi thở. Tôi có muốn tranh cũng không tranh được, nhưng ngón tay tôi đã không còn nghe lời tôi nữa, tôi sắp không thể nâng nổi cả một ngón tay thì làm sao còn làm mấy việc chải tóc hay chăm sóc mình được nữa.
Bờ biển trở thành nơi an ủi chúng tôi vào những ngày còn lại ít ỏi. Không khí đặc quánh giữa những tia nắng và mùi của biển khơi, hòa vào trong những vẻ bình yên giả tạo ẩn giấu bên dưới là những điều chưa nói. Lê Duy An luôn bày lên bàn vẻ rạng rỡ, hơi thở ấm áp của gã hoàn toàn trái ngược với luồng gió mát. Tôi ngồi trên chiếc xe lăn, nép mình vào cái bóng bên dưới bờ biển.
Lê Duy An bắt đầu chụp nhiều hình hơn,tôi chưa từng thấy gã chụp nhiều khi tôi mới quen biết gã. Lê Duy An không nói về việc gã trải qua những gì để bắt đầu niềm đam mê này, nhưng Lan Anh đã cùng tôi tìm hiểu "danh tiếng" được người khác tréo lên người gã. "Nhiếp ảnh gia kỳ lạ", "Những tác phẩm qua đôi mắt Chúa", Lê Duy An chụp rất nhiều thứ trên đời, đạt nhiều giải trong nước và quốc tế, cũng như được triển lãm tại nhiều khu triển lãm ở nhiều nước. Tôi không tìm hiểu thêm, tôi không biết làm thế nào Lê Duy An bén duyên với nhiếp ảnh, có rất nhiều chuyện mà tôi không hỏi, gã cũng không nói.
Lê Duy An rất thích chụp ảnh tôi. Những lúc tôi cùng gã ra biển hay đi dạo, gã đều tranh thủ chụp vài tấm, có lúc tôi biết, có lúc tôi không, nhưng tôi không mấy muốn gã chụp ảnh tôi. Bởi vì tôi biết hiện giờ mình thế nào, tôi không còn đủ tự tin để gã lưu giữ những hình ảnh đó của tôi, tôi càng không muốn sau này tôi chết, những tấm ảnh đó lại trở thành thứ giày vò gã trong những đêm nhớ tôi.
Phong cảnh trải dài trong ánh sáng vàng của nắng , những con đường lấp lánh trong ánh chiều muộn.
Gã khẽ cười khúc khích, một âm thanh rơi xuống không khí áp vỡ sự im lặng như một con sóng nhỏ gợn trên mặt nước tĩnh lặng. "Em không nói chuyện," gã nói, giọng mang theo âm trầm thấp pha chút hiểu biết thích thú, "Em không thích anh chụp ảnh em."
Tôi gật đầu nhẹ, một động tác biểu hiện sự bất mãn của tôi, một sự thừa nhận thầm lặng. Tôi hiểu Lê Duy An rằng gã sẽ không vì tôi phản đối mà ngừng lại việc gã muốn làm, tôi chỉ là muốn biểu hiện vẻ không hài lòng của tôi.
Những ngày trôi qua một cách thầm lặng như màn đêm và ánh sáng luân phiên, chúng tôi sẽ cùng nhau đi dạo, sau đó lại mua đồ, rồi lại đi đến bờ biển. Lê Duy An đã mở một tiệm chụp hình lấy liền nhỏ ở gần bãi biển có nhiều du khách qua lại. Những lúc không có khách, gã sẽ cùng tôi ngồi im lặng ngắm cảnh, bên tai vang lên tiếng nhạc cũ kỹ quen thuộc mà cả hai bọn tôi đã thuộc từ lâu.
Đến khi trời về chiều, tôi và gã sẽ về nhà, Lê Duy An sẽ nấu cơm, tôi chỉ việc ngắm nhìn gã làm. Cơm Lê Duy An càng nấu lại càng ngon, tôi cũng cố gắng ăn nhiều hơn, lần nào cũng ăn hết. Nhưng đáng tiếc, lần nào ăn xong tôi cũng nôn rất nhiều, những lúc như thế, mới có thể kéo tôi về hiện thực tàn khốc, rằng tôi đang dần rời xa gã.
Tháng ba trôi đến với mùi hoa cỏ treo trong không khí và những khoảng nắng thấm đượm vào da thịt. Tôi tìm thấy một bức tranh cũ không biết từ bao giờ,trên trang giấy trắng vươn mùi ẩm chứng tỏ đã được cất giữ trong bóng tối một thời gian. Nhé vẽ từ tinh tế nắn nó đến ngoằn ngoèo không theo đường lối, người đàn ông trong tranh hiện lên như thể được ve từ hai người khác nhau. Hình ảnh từng nét vẽ vươn trên khóe mắt, sau đó giống như một cái gì nặng nề đè lên khí quản của tôi, một cảm giác kỳ lạ trào lên cổ họng khiến suy nghĩ trong đầu trở thành một đống rối vò. Bức tranh tôi vẽ Lê Duy An, nỗi tiếc nuối của tôi. Giá như tôi có thể tranh thủ thời gian mà vẽ sớm hơn, thì tôi đã có thể hoàn thành nó.
Tôi cứ nhìn vào tờ giấy đã bị nhàu nhĩ ở các góc, nhìn đến mức tầm mắt tôi rơi vào vô định. Thì ra con người luôn phải có những điều bản thân hối tiếc, giống như bà Năm hối tiếc vì không thể bảo vệ con gái mình năm xưa, giống như nội tôi không thể trở về nơi mà nội đã sống gần hết một đời người, giống như Lan Anh hối tiếc vì bản thân sinh ra quá muộn, hay là tôi, hối tiếc vì có quá ít thời gian. Mỗi một đời người, nuối tiếc lớn nhất có lẽ là những thứ chẳng thể nào có lại được, chính là lỗi lầm, là đánh mất, là thứ mà cả đời đều chẳng thể thay đổi. Vậy nếu như có thể quay lại hoặc cho thêm một cơ hội nữa, liệu rằng chúng ta sẽ không để bản thân hối tiếc không? Đời người không có nếu như, không có giả sử, cũng chẳng ai biết được kết cục của con đường còn lại là gì, nên chẳng ai biết mà cố gắng làm hay thay đổi được gì, vì đời người chính là con đường một chiều, không quay đầu, không vãn hồi. Có người từng bảo rằng, nuối tiếc làm nên vẻ đẹp của một đời người. Vậy thì có lẽ nuối tiếc, cũng là một loại cảm thụ để chúng ta trân trọng thứ trước mắt.
Vậy…nuối tiếc của Lê Duy An là gì ?
Tôi đã hỏi gã và một đêm trăng chỉ có nửa vành treo cao, lửng lơ trơ trọi giữa màn đen đêm tối, trời đã vào thu, cây hồng cũng tàn lá. Đêm bao trùm mọi quang cảnh trong tấm màn nhung mượt mà, mỗi một chiếc lá, một thứ hiện diện của sự sống diệu kỳ, được bao bọc trong ánh trăng, tỏa sáng nhẹ nhàng.
“Nuối tiếc của anh?” Tôi cảm nhận được sự căng cứng của cơ thể gã bên cạnh tôi. Tôi gật đầu, chỉ tay vào trong lồng ngực gã, nuối tiếc của trái tim gã là gì.
“Là mười tám năm luôn khiến mẹ buồn lòng, là năm mười tám tuổi anh không đủ sức bảo vệ mẹ mình. Là mười lăm năm sống trong thù hận với ông bà để rồi ngày cuối cùng của bà ngoại, anh thấy được sự ân hận, tự trách và nỗi cô độc của bà. Là khoảng thời gian ngắn ngủi ở bên em.”
Lời nói của gã lơ lửng giữa chúng tôi, một tiếng vọng thầm lặng của quá khứ và nỗi buồn không nói thành lời.
Mỗi một từ mà Lê Duy An nói đều như một cây kim nhỏ đâm từng chút từng chút vào lòng tôi. Tôi đã từng nghĩ rằng bản thân có thể giúp Lê Duy An chấp vá lại cõi lòng của gã, nhưng đâu phải cứ nói là làm được. Nếu như nuối tiếc là một sự níu kéo của quá khứ thì chính chúng ta là người đã chấp tay cho sự níu kéo đó. Là ân hận đang ăn mòn tâm hồn, là dĩ vãng mãi mãi không thể vãn hồi. Từ năm mười tám tuổi đến tận năm hai mươi lăm, mười lăm năm hay mười tám năm, thì Lê Duy An vẫn luôn bị trói buộc bởi những quá khứ đau thương mà gã đang giữ lấy như một sự trừng phạt. Tình yêu của tôi không bao giờ đủ để an ủi trái tim gã, so với cái đau khổ của gã thì tình yêu của tôi quá nhỏ bé, và rồi nó cũng sẽ biến thành một phần của đau khổ trong gã.
Tôi ôm lấy Lê Duy An, vuốt tóc của gã, hôn lên trán gã, mọi lời nói đều là dư thừa.
“Em biết không, anh đã đi nhiều nơi, lang thang trong vô định, anh không biết bản thân sẽ sống như vậy cho tới khi nào. Một đứa trẻ chưa từng có nhà sẽ chẳng bao giờ cần nhà. Nhưng em là nhà của anh, là điều mà mãi mãi về sau, cho dù anh có nuối tiếc bất kỳ thứ gì, thì em sẽ là điều mà mỗi đêm anh đều sẽ thầm cảm ơn ông trời." Gã thì thầm, giọng nói của gã là một cái vuốt ve đầy dịu dàng trong gió lạnh thì thầm, giống như thể một mảnh lụa mềm mại bao bọc lấy tôi, một tiếng thì thầm của nhiều hơn một thứ cảm súc đang sục sôi bên dưới làn da.
Lời hứa của tình yêu thật đẹp biết bao. Năm hai mươi tuổi, tôi sống trong tình yêu mà Lê Duy An dành cho tôi. Năm hai mươi tuổi, tôi có cả thế giới để yêu thương.
Tôi nhận tin từ chú bác sĩ vào một tháng sau, chú ấy sẽ ra nước ngoài để học thêm về chuyên khoa não. Chú ấy dặn dò tôi rất nhiều thứ, cũng nói với tôi rất nhiều chuyện, chú bảo tôi phải thường xuyên tái khám, chú đã chuyển bệnh án của tôi cho một vị đồng nghiệp, còn để lại rất nhiều kẹo dâu, nghe đến đây tôi liền đau đầu, lại là kẹo dâu. Chú bảo tôi phải tự chăm mình cho tốt, không được có ý nghĩ tiêu cực, còn phải ăn uống đầy đủ, có nôn ra thì phải cố ăn bổ vào, khó chịu thì cũng phải cố ăn. Chú ấy bảo rằng tôi hãy cố sống thật hạnh phúc, sống như một bông xuyến chi vậy, dù có thế nào cũng vẫn kiên cường mà nở hoa.
Thở dài chán nản, tôi cắn một miếng táo được Lê Duy An gọt cẩn thận đặt trên đĩa, gã nhìn tôi qua khóe mắt trong khi đang im lặng ngồi đối diện. Đôi mắt gã chăm chú gọt trái cây, nhưng tôi biết gã vẫn luôn chú ý lắng nghe những gì tôi và chú bác sĩ trao đổi. Đôi mắt tôi dán chặt vào gã, khẽ nheo mắt cảnh cáo,trong khi đôi tai vẫn lắng nghe từng lời dặn dò của người bên kia điện thoại.
Tôi do dự nhưng vẫn đầu hàng sự tò mò của mình, tôi nghiêng đầu sang một bên, "Lan Anh đã biết chưa ạ?" Tôi chậm rãi hỏi, giọng sắc và khô khan.
Tôi nghe tiếng thở dài phía bên kia đầu dây. Im lặng. Một tiếng thở dài nhẹ nhàng thoát ra khỏi đôi môi tôi, thu hút sự chú ý của Lê Duy An.
“Chị ấy chưa biết đúng không ạ?” Tôi cau mày sâu hơn, một lời chỉ trích thầm lặng mà tôi từ chối thừa nhận nhưng không thể hoàn toàn lờ đi.
“Ừ, chú nên nói sao với con bé? Lấy tư cách gì nói với nó chứ?" Chú trả lời, giọng điệu đều đều và bình tĩnh.
Lần cuối cùng tôi gặp chú trước đám cưới của tôi, mái tóc đã có vài sợi bạc màu, trên khuôn mặt cũng có thêm vài nếp nhăn. Chú bác sĩ của tôi, hiệp sĩ của tôi đã già rồi.
Nếu nuối tiếc của một con người là những chuyện đã qua, thì có lẽ nuối tiếc của hay người họ là khoảng thời gian cách biệt nhau quá xa. Liệu tình yêu có một ranh giới nào không? Ranh giới giữa ngoại hình, tính cách, giới tính và tuổi tác liệu có thực sự tồn tại trong tình yêu? Chú bác sĩ đã bốn mươi, trong mười năm qua tôi chưa bao giờ nghe chú nói về một mối quan hệ tình cảm nào với người khác, thì liệu có phải tình yêu của chú và Lan Anh thực sự đang bị ranh giới tuổi tác và cái nhìn của xã hội trói buộc.
“Cả chú và Lan Anh đều thật hèn nhát,” tôi nói, giọng xa xăm và nhẹ nhàng, “Chú đã khuyên cháu đừng hèn nhát trước tình yêu, vậy mà chú lại không làm được." Tôi nói tiếp, giọng đều đều, nuốt xuống cơn thôi thúc chế giễu đang mắc kẹt trong cổ họng. Chú ấy đã khuyên nhủ tôi, đã nói những câu nói mà chính chú ấy lại không thể làm được. Tôi cũng từng hèn nhát như vậy, đã từng sống trong sự dằn vặt của tình yêu và hiện thực. Sự quyết định của bọn họ đã đưa ra, chẳng còn là gì với tôi nữa, nhưng nó lại khuấy động thứ gì đó gồ ghề trong hơi thở, một lời nhắc nhở về những trăn trở tôi từng có.
Tôi ước gì chú ấy có thể dũng cảm hơn một chút, thì ra đứng trước tình yêu và thử thách của nó, ai cũng điều là kẻ hèn nhát cả. Có người thì may mắn vượt qua, có người lại chỉ ngậm ngùi quay lưng.
Hơi ấm của tháng Ba tràn ngập mặt đất, mù đất được nung trong nắng luẩn quẩn trong khoang mũi. Tôi bắt đầu khao khát hơi ấm của nắg để làm dịu đôi chân lạnh ngắt của mình. Những khó chịu về thể chất và những giờ liền không thể cử động trở thành ác mộng giữa ban ngày.
Tôi bắt đầu khao khát hơi ấm giữa trưa để làm dịu đôi chân lạnh ngắt, cứng đờ của mình, nhưng tôi đã dần quen với cảm giác này, và những tia hy vọng về một sự ban ơn của ông trời đã dần lụi tắt trong bóng tối của những đêm tháng ba. Cơ bắp tôi đã dừnggào thét từ lâu, nhưng đau đớn ở phổi và trong hơi thở lan rộng mỗi giờ như cháy rừng chạy qua cơ thể, như một lời nhắc nhở về thời gian đã hết. Cơn đau ở trong lồng ngực dâng lên rồi hạ xuống từng đợt, mồi hôi rỉ trên trán lấp lánh trong không khí. Lê Duy An đã chú ý đến tôi. Tôi không thể tiếp tục giấu những cơn đau ở trong bóng tối được nữa dưới đôi mắt tinh tường của gã. Lê Duy An trở thành một máy giám sát tôi hai mươi tư giờ liền, những đêm đen gã tỉnh giấc canh chừng tôi, một đêm vài lần, gã đều thức dậy như một thói quen để quan sát tình hình của tôi. Tôi biết, nhưng tôi không nói với gã rằng tôi biết. Để đề phòng những lúc gã lơ là, Lê Duy An bắt đầu lặp một chiến dịch báo động phòng ngừa.
Sau cùng, ý tưởng đó được thực hiện bởi Mi Ka.
Mi Ka là một chú cún nhỏ mà gã và tôi cùng mua được trong một ngày hợp chợ. Mi Ka bé xíu, lông màu cà phê sữa, lúc bọn tôi thấy nó cùng với đám chó con khác, thằng bé là đứa hiếu động nhất, dù trong nó cũng ốm yếu xanh xao như những con chó khác, cũng là đứa biết nịnh người nhất. Lúc đầu, bọn tôi đứng từ xa nhìn chúng nó, bọn chó con thiếu ăn nên đói, người đứa nào đứa nấy bé xíu ốm yếu, nhưng chỉ cần có người đi qua nhìn bọn chúng, Mi Ka lại là đứa đầu tiên chạy lên làm trò chú ý. Lê Duy An thấy thế thì bảo thằng nhóc này khá lanh lợi, thích hợp để nó bên tôi. Sau khi chúng tôi lại hỏi giá, khi nhìn thấy cả bọn chó con ốm yếu xanh xao, tôi và Lê Duy An kiềm lòng không được định mua hết, nhưng lại không thể chăm hết bọn nó, thế là bọn tôi chỉ có thể lấy Mi Ka về, còn lại thì gửi ít tiền cho chú chủ để mua đồ ăn thêm cho bọn nó.
Mi Ka không sợ người, lại rất tinh ranh, vừa vào đến nhà là chạy vòng quanh mấy bận, cái đuôi quẩy đến mức tôi nghĩ nó sắp lìa ra khỏi mông nó. Nhưng mà điều tôi không ngời là ngay cả trong sự vô tư tinh nghịch của nó lại luôn sợ hãi như vậy. Chúng tôi lấy ít thịt cho Mi Ka, thằng bé vừa nhìn thì cái đuôi đã quẩy liên hồi, nhưng chẳng dám ăn ngay mà ngửa mặt nhìn bọn tôi. Tôi nhìn thấy trong lòng lại khó chịu vì thằng bé.
Lê Duy An cũng mềm lòng, gã tuy to con hơn tôi, nhưng lòng lại mềm hơn tôi, mỗi lần gã coi phim với tôi lúc nào cũng khóc trước. Gã thấy thế liền không nhịn được vuốt ve Mi Ka thật lâu, an ủi đủ kiểu bằng mấy lời nói còn lành hơn cả gió tháng Mười Hai.
Chúng tôi nuôi Mi Ka được một tháng, cả người nó bị Lê Duy An vỗ béo đến mức tròn quay như một quả bóng bị thổi căng lên. Tôi nói với gã, đợi khi Mi Ka báo động cho gã thì tôi cũng tỉnh dậy mất rồi. Từ đó, Lê Duy An bắt đầu lên kế hoạch giảm cân cho Mi Ka.
Thằng bé tội nghiệp được chúng tôi cưng chiều thành quen, một ngày ba bữa thịt không thiếu, bây giờ lại ăn thịt không đủ, mỗi lần nhìn chúng tôi thì nó lại kêu lên tội nghiệp. Nhiều lần tôi mềm lòng, không nhịn được liền trộm một cái đùi gà cho thằng bé, thế là tôi vừa bị Lê Duy An mắng mà ngay cả Mi Ka cũng bị bắt đi chạy mấy vòng quanh sân. Từ đó, tôi cho gì nó cũng không ăn.
Mi Ka rất thông minh, biết phân biệt người lạ, quen. Ngay cả Lan Anh khi mới lên đảo nhìn thấy nó cũng rất thích thằng bé.
Lan Anh đến thăm chúng tôi vào một tháng sau khi chú bác sĩ đã đi ra nước ngoài. Chị ấy gầy đi trông thấy, nhưng nét mặt vẫn rất rạng rỡ, tôi nghĩ, có lẽ chị ấy đã vượt qua được thời gian khó khăn rồi. Lan Anh mang rất nhiều đồ đến, chị bảo ba mẹ cũng muốn đi, như do có chút việc không sắp xếp được nên chị đi trước. Tôi có rất nhiều chuyện muốn nói với chị, nhưng mà lại không biết bắt đầu từ đâu.
Lê Duy An tranh thủ lúc Lan Anh chăm tôi thì cũng rời đảo giải quyết vài việc, gã thật ra cũng rất bận, nhưng sẽ luôn dành thời gian cho tôi, đến khi Lan Anh đến chăm tôi thì gã mới an tâm rời đi. Mi Ka sau một vài lần sợ hãi thì cũng thân thiết với Lan Anh lắm, vì Lan Anh cho thằng bé ăn rất nhiều thịt.
Buổi tối chỉ có hai chị em, Lan Anh mới nhỏ giọng, “Chị biết tin vào hai hôm sau khi chú ấy đi. Chị nghĩ em biết sớm hơn chị, đúng không?" Lan Anh mỉm cười yếu ớt, vẻ mặt quá bình tĩnh, quá hiểu biết, như thể đang nói một điều gì đó không liên quan đến chị nữa.
Tôi nghiên cứu chị một lúc, mắt nheo lại, đánh giá. Sự chắc chắn bình tĩnh của chị làm tôi đau nhói, như thể chị đã không còn sức lực để quan tâm nữa. Một nụ cười nhếch mép yếu ớt kéo lên môi tôi, mặc dù nó không hề vui vẻ, chỉ có sự bất đắc dĩ xen lẫn đau buồn. Tôi gật đầu, chú ấy vẫn lựa chọn không nói, tôi thì có quyền gì quyết định thay chú ấy chứ.
Môi chị cong lên thành một nụ cười cay đắng, “Hóa ra yêu một người lại đau khổ đến vậy. Cảm giác như một người bị bệnh tim vậy, sẽ nhói đau mọi lúc.” Chị thì thầm, nhẹ như một giấc mơ không có thực, đến nỗi như thể đang nói với chính mình.
Chúng tôi nằm với nhau trên chiếc giường, màn đêm trải dài xung quanh như những tấm thảm nhung mịn. Một sự im lặng nặng nề đề xuống trong tâm trí từng người, chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng thở nhẹ nhàng bên tai.
Lê Duy An đã thực hiện được điều gã hứa với tôi. Gã đã mang hoa xuyến chi về khắp nhà. Gã trồng gần cây hồng vài bụi, đem vào phòng một chậu, trong phòng khách một chậu, nhà bếp, phòng tắm, nơi nơi đều có một chậu xuyến chi. Việc gã trồng vài bụi hoa thì còn hiểu, chứ mà đem đi bày vào lọ thì tôi không hiểu được, ai lại dùng mấy bông hoa dại này để trong nhà chứ. Nhưng Lê Duy An là một gã kỳ quái.
Gã rất tự hào với thành tựu cả một buổi sáng của mình, trên người gã dính rất nhiều đất. Lê Duy An còn đặc biệt căn dặn Mi Ka là không được đào đất ở vườn nữa, nếu nó không nghe lời, sẽ cắt thịt của nó.
Mắt tôi dạo này đã bắt đầu kém đi, tai cũng không nghe rõ. Chú bác sĩ nói với tôi, nếu tôi ngày càng mất đi nhiều quyền kiểm xoát cơ thể, thì thời gian của tôi càng ngắn. Thời gian sắp điểm.
Tôi có thể giấu những thứ không biểu hiện ra bên ngoài, nhưng việc như nôn mửa, khó ăn, thì chẳng giấu được gã. Lê Duy An tìm hết tất cả các công thức nấu nướng, ngày nào cũng nấu rất nhiều món, nhưng tôi một chút cũng không ăn vào, cố ăn thì cũng sẽ không tự chủ được mà nôn ra hết.
Những lúc như thế, Lê Duy An đều sẽ ôm tôi vỗ về, “Không sao hết, món này khó ăn thì mai anh sẽ nấu cái khác dễ ăn hơn cho em, được không?”
Tôi rất muốn nói với gã, đồ gã nấu chẳng khó ăn chút nào, nhưng lại không thể nói được gì.
Dần dần, tôi nói chuyện cũng khó khăn hơn, trí nhớ cũng giảm rất nhiều, tôi còn quên cả tên của Mi Ka. Đôi lúc tôi gọi nó bằng một cái tên khác, hoặc không thể nhớ được tên gì, Mi Ka đều mặc kệ mà chạy đến dưới chân tôi vẫy đuôi. Nếu một ngày tôi quên Lê Duy An thì sao? Tôi sẽ quên tên người tôi yêu nhất sao?
Lê Duy An biết được sự lo lắng của tôi, gã liền nhờ cô Ba chuyên may vá quần áo ngoài chợ, thêu tên gã trên vài cái áo trắng. Mặt trước thì thêu “Lê Duy An ”, mặt sau thì thêu “người yêu Nguyễn Xuyến Chi ”, tôi cũng không hiểu vì sao cô Ba chịu nhận lời gã được nữa cơ.
Rốt cuộc thì, tôi vẫn sẽ từ giã cõi đời, chỉ là ngày hôm đó, tôi không muốn nhìn thấy Lê Duy An.
Nếu như có thể cầu xin ông trời, tôi sẽ cầu mong rằng những người thân của tôi sẽ chẳng đau buồn về cái chết của tôi quá lâu. Đương nhiên, tình yêu của họ sẽ khiến họ đau khổ, nhưng đừng lâu quá. Tôi không muốn thật lâu về sau sau khi tôi biến mất, những người yêu thương tôi và những người tôi yêu thương sẽ chỉ nhớ về cái chết của tôi.
Tôi mong rằng họ sẽ nhớ về nhiều thứ hơn như thế, giống như ba mẹ, họ sẽ nhớ đến tôi như một đứa con nghịch ngợm lúc nào cũng bị giáo viên gọi lên văn phòng, hay là đứa thích bày trò chọc phá mọi người. Là đứa trẻ tuy thích ồn ào nhưng chưa bao giờ thực sự thôi cái cảm giác lo sợ và luôn luôn cảm thấy không an toàn.
Giống như Lan Anh, chị sẽ nhớ tôi là một cô em gái mà chị đã từng ghét, hay là một đứa lúc nào cũng hô hào sẽ bảo vệ chị. Bác sĩ của tôi sẽ nhớ đến tôi như là một cô công chúa cứng đầu lúc nào cũng khiến hiệp sĩ lo lắng, hay là đứa nhóc lúc nào cũng chê cây kẹo hương dâu mà vẫn thò tay lấy ăn. Lê Duy An của tôi sẽ nhớ đến một Nguyễn Xuyến Chi luôn gây rắc rối cho gã, lúc nào cũng vòi vĩnh gã chụp hình cho, gã sẽ luôn nhớ đến một Nguyễn Xuyến Chi như một điều sẽ luôn làm gã hạnh phúc chứ không phải một ký ức đau buồn. Tôi có quá nhiều thứ để lại cho mọi người không phải duy nhất cái chết.
Chúng tôi dành cả tối bên bờ biển, dựng một chiếc liều nhỏ, đốt lửa, trải qua một đêm ngắn ngủi ở nơi gió vỗ vào sóng, sóng vỗ vào cát. Mi Ka nằm im hưởng thụ giấc ngủ ngon, còn tôi và Lê Duy An thì đợi chờ ánh bình minh ngày mới.
Tôi ngày càng yếu đi, ngay cả việc hít thở cũng khiến tôi đau đến muốn khóc. Mỗi lần như thế, Lê Duy An sẽ luôn lặng lẽ nắm lấy tay tôi. Nỗi buồn tràn ra khỏi đáy, lan vào trong từng kẽ tay, nước mắt bất chợt rơi xuống, nóng hổi, mặn chát.
Gió lạnh tràn vào trong, gã khoác vai tôi, ôm tôi vào lòng sưởi ấm. Tôi cứ trong tình trạng lúc tỉnh lúc mê. Lúc tỉnh táo, tôi sẽ nói với gã về đủ thứ chuyện, kể gã nghe về những câu chuyện mà cô ba, cô bảy thường hay nói với tôi, sau đó lại không ngừng nói về tương lai, tôi sẽ trồng một vườn dưa hấu đỏ, thật đỏ thật ngọt, tôi sẽ xây một căn nhà nhỏ cho Mi Ka, để nó lấy vợ sinh con, cũng sẽ đem mộ phần của bà nội về đây với tôi. Lúc mê mang, tôi chỉ có thể thì thầm gì đó chẳng nhớ rõ, ánh mắt cũng chẳng nhìn rõ thứ gì, đôi tai cũng dường như tê liệt. Dù lúc nào, Lê Duy An cũng sẽ luôn đáp lại lời tôi, đôi lúc là lắng nghe, đôi lúc lại ậm ừ cố nén âm thanh rung rẩy từ cổ họng.
Trong một nhịp tim, cả thế giới dường như nín thở. Sau đó, biển phá vỡ đi mọi thứ im lặng vô hình bằng những con sóng đang không ngừng đập vào mõm đá, thở hổn hển trong không khí bằng những lần cuộn trào. Một con sóng rồi lại một con sóng như những ngón tay mong manh bám chặt lấy bờ một cách tuyệt vọng.
Bình minh dần ló dạng trên những cơn sóng đã chiến đấu suốt đêm. Nơi này có quá nhiều thứ với tôi, có tuổi thơ của tôi, có tình yêu của tôi, có sinh mệnh của tôi.
“Lê Duy An, anh có bao giờ nghe một truyền thuyết này chưa, khi đôi tình nhân cùng nhau ngắm bình minh, ánh sáng đầu tiên sẽ ban phúc cho họ, để họ mãi mãi ở bên nhau." Bài hát của biển cả ngày càng lớn hơn, tiếng thì thầm dai dẳng của nó như tiếng thì thầm của số phận, kéo chúng tôi đến gần hơn một cách không thể tránh khỏi với khoảnh khắc sẽ thay đổi mọi thứ, phá vỡ những gì còn sót lại.
“Đúng vậy, ánh sáng đầu tiên sẽ ban phúc cho chúng ta." Giọng tôi chìm trong tiếng thở khó khăn và tiếng gió nặng nề, tôi tựa vào vai gã, đôi mắt dần nặng lại, không còn sức để mở lên nữa.
“Khờ thật, cho dù có nhận được lời chúc phúc hay không, anh và em vẫn sẽ mãi không rời." Gã vỗ trán tôi, nhưng tôi chẳng biết gã có nhìn tôi không.
“Lê Duy An, em mệt quá." Tôi khẽ nói, khó khăn hki đẩy những từ ngữ ra khỏi khí quản.
Gã ôm ôm ngày càng chặt, như cố níu giữ lấy sinh mệnh mong mang của tôi. Nhưng sinh mệnh tôi như sợ khói mong manh, tôi biết rõ, tôi và gã, sẽ mãi mãi chẳng bao giờ nhận được lời chúc phúc của ông trời. Chúng tôi, sẽ xa rời nhau, là ranh giới sống và chết, mãi mãi.
Hình như vai gã hơi run nhẹ, tôi nghe thấy tiếng hít thở không thông của gã. Thầm mong rằng đây sẽ là lần cuối gã khóc vì tôi.
Tôi chẳng còn kịp nhìn thấy bình minh, ngay cả tia sáng đầu tiên của ngày mới, tôi cũng chẳng nhìn thấy được, có lẽ ông trời thực sự chẳng muốn chúng tôi mãi mãi bên nhau.
Hóa xuyến chi trong nhà đã héo chưa kịp thay.
Thứ tôi mơ hồ nhìn thấy cuối cùng chính là bụi hoa Lê Duy An trồng cũng đã nở bông đầu tiên.
Năm nay tôi hai mươi, Lê Duy An hai lăm.
Ngày hai mươi ba, tháng ba, Nguyễn Xuyến Chi mất. Vào một ngày cuối xuân đầu hạ, tôi tạm biệt hòn đảo thân yêu. Thật kỳ lạ làm sao, biển hôm đó trong xanh lạ thường, đáng tiếc tôi chẳng thể kịp nhìn thấy những tia nắng đầu tiên chiếu rọi nơi biển cả. Trước mắt chỉ là tăm tối của đại dương sâu thẳm.
Bình luận
Chưa có bình luận