GIÔNG



Cái chết. 

Đó là sự nuối tiếc đối với người trẻ và là nghi lễ cuối cùng của người già. 

Tôi đã từng coi mình là người được Cái chết ưu ái, bởi vì tôi sẽ chết trước khi kịp chứng kiến thêm bất kỳ ai - những người tôi yêu rời đi. 

Những ngày buồn ở hòn đảo, mưa cứ rơi mãi trong những ngày còn lại của tháng mười một. Dòng nước nhỏ chảy xuống dọc theo mặt kính như khóc. Hai cánh tay tôi ôm lấy ngực để chặn những cơn gió thổi mạnh đang đâm vào da, tóc bị thổi bay theo mọi hướng nhưng cũng không buồn chỉnh sửa.

 Đã hai tuần kể từ khi mọi việc trôi qua như dòng nước nhỏ giọt trên mái hiên.

Tôi đã cố gắng, nhếch khóe miệng, nheo mắt, tạo nên một nụ cười giả tạo trong hai tuần khi bố mẹ tôi lên đảo. Tôi đã khoác lên mình áo giáp một lần nữa, nhưng lần này tôi không chiến đấu cho tôi, tôi muốn chiến đấu vì Lê Duy An. Tôi biết chỉ một cái chau mày, vài dòng nước mắt, một tâm trạng tồi sẽ khiến bố mẹ tôi bắt tôi phải trở về cùng họ, rời xa Lê Duy An. Mặc dù gã rất giỏi khi giả vờ rằng bản thân chẳng mảy may đau buồn, mặc dù những người bên ngoài nói rằng một đứa cháu để cho bà mình sống một mình ở một hòn đảo vắng vẻ trong mười mấy năm thì có bao nhiêu thương yêu để đau lòng. Nhưng tôi nhìn thấy được, sự tan vỡ của người tôi yêu ẩn đằng sau vẻ kiên cường đó.

"Chăm sóc bản thân nhé, cả thằng bé nữa." Giọng mẹ tôi vang đều đều bên tai trong khi bà trao tôi cái ôm tạm biệt. 

Tôi kìm nén cảm xúc gật đầu, kéo khóe miệng thành một nụ cười mỉm.

Và đó là câu chuyện của ba ngày trước. Trước khi bố mẹ tôi lên tàu rời khỏi đảo, về lại thành phố.

Ánh mắt tôi nán lại ở đường chân trời xa xăm, nơi mặt trời đang biến mất dần phía trên. Tiếng thì thầm của cơn mưa giống như lời mời gọi về một sự tĩnh lặng đáng sợ mà tôi sắp phải đối mặt.

Sự im lặng đang giết chết tôi.

Căn nhà trở nên im lặng và não tôi không nghĩ được gì về những chuyện đã từng xảy ra. Nó vô ích -nghĩ về quá khứ, hồi tưởng, lạc lõng trong quãng thời gian trôi qua kẽ tay, nó vô ích. Những sự im lặng khiến tôi không loại bỏ những suy nghĩ kia đi được, những ngày được bà Năm chăm sóc như con cháu trong nhà, những món ăn thơm ngon bà nấu, những lời la mắng trong lo lắng khi tôi làm gì đó tổn hại cho bản thân, nó bám chặt vào tôi như nhựa trên cây. 

Lê Duy An lo lắng cho tôi, tôi đã không nói chuyện hơn một ngày, tôi chỉ hiện diện trong ngôi nhà như một bóng ma lơ lửng trong không khí. Tôi không còn ra biển vào những ngày nắng đẹp, không cùng Lê Duy An bày trò vào những ngày mưa rơi. Tôi chỉ ngồi đó, đầu gối áp vào ngực, hai tay ôm chặt đầu gối, đầu tựa lên tay. Tôi không buồn nhiều như cái cách tôi đã từng có vào những ngày đám tang của nội. Tôi không gắn bó đủ lâu với Bà Năm để khóc vào mỗi lần tôi nhớ bà. Chỉ là sự ra đi của bà nhanh chóng như một chiếc lá rơi trong cơn bão tháng Mười. Người lúc hai tuần trước tôi vẫn còn đang nói cười vui vẻ, giờ đã nằm trong đất sâu hai mét dưới lòng bàn chân. 

Những ngày đầu tháng Mười Hai bắt đầu bằng tia nắng vàng, và có mùi như một tấm chăn bông mới giặt.

Lê Duy An áp trán mình vào trán tôi, thì thầm nhẹ nhàng, "Nắng lên rồi, em có muốn ra biển không?" Giọng gã du dương dệt nên sự bình yên trong tôi.

Mùi đất ẩm còn sót lại sau những ngày mưa dài và mùi cỏ mới mọc tràn ra không khí, giống như nhắc nhở về sự sinh động còn lại của thế giới. Có cái gì đó trong tôi tan ra, thấm vào đất, thay bằng sự bình lặng đã lâu không cảm nhận được. 

Những ngày nắng không kéo dài lâu, ngày mới bắt đầu bằng những cơn mưa dài xuyên đêm. Tôi bước xuống giường và lê mình qua những cung đường hành lang, đi vào phòng tắm. Nước lạnh ập vào kéo lại sự tỉnh táo vốn mờ nhạt trên khuôn mặt.

Hình ảnh phản chiếu của chính mình trong gương, và một giọng nói vang lên trong tâm trí - thật thảm hại. Tôi không thể chối cãi, hình bóng tôi phản chiếu trong gương, với đôi mắt sưng và gương mặt tiều tụy như một bóng ma khi giấc ngủ đã xa lánh tôi vài đêm. 

Cổ họng tôi khô khốc đòi hỏi dòng nước mát. Khi đôi tay tôi run rẩy, nắm chặt rồi lại thả lỏng trong tuyệt vọng. Ly nước rơi vỡ nát trên sàn nhà, vang lên một tiếng lọt vào tai, mảnh thủy tinh văng khắp nơi, lấp lánh trong đêm như kim cương.

Cánh cửa nặng nề mở ra với một tiếng vang dội, và Lê Duy An lao ra ngoài, động tác của gã nhanh và gấp gáp. Gã chạy đến bên tôi, mở to đôi mắt vì lo lắng. "Có chuyện gì vậy? Em ổn chứ?"

"Em ổn," Tôi nhẹ nhàng nói với nụ cười trấn an trên môi, "Em sơ ý làm vỡ ly thôi."

"Em làm anh sợ đấy," gã thở phào nhẹ nhõm.

Và rồi tôi nhận ra, tôi không có thời gian để buồn. Thực ra, chẳng có gì là của tôi để mất cả, không phải tình yêu, không phải tương lai. Tôi đã đánh cắp mọi thứ, vay mượn trong sự tạm bợ, tình yêu, hạnh phúc, sự sống. Tôi biết rằng nó chỉ là một ảo ảnh, một món nợ mà tôi sẽ phải trả lại, bằng nước mắt của những người bên cạnh tôi, một cái giá đắt đỏ.

"Hôm nay em sẽ nấu cơm." Tôi mỉm cười nhìn gã, trong đầu hiện lên những món tôi sẽ làm.

Trái ngược với sự vui mừng mà tôi mong đợi sẽ hiện lên trên khuôn mặt của gã, thì Lê Duy An lại có một vẻ mặt rất khó hiểu, "Tại sao em lại muốn nấu ăn?"

"Bởi vì anh đã chăm sóc em trong những ngày tâm trạng em không tốt, trong khi em biết tâm trạng anh cũng rất không tốt, cho nên em muốn báo đáp anh." Tôi nghiêng người về phía gã, hai tay nắm lấy khuôn mặt người đối diện.

"Em muốn báo đáp tâm hồn anh bằng cách hành hạ dạ dày của anh?" Gã nhướng mày hoài nghi. Đôi tay tôi rời khỏi khuôn mặt gã, hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh. 

"Anh khinh thường em không thể nấu một bữa ăn?" 

"Không phải, là em chắc chắn không thể nấu một bữa ăn." Gã ôm lấy tôi, hai tay vòng qua eo tôi, xiết chặt, "Nhưng anh vui vì em đã trở lại." 

Trí nhớ tôi trở nên mong manh và hỗn loạn như một cơn bão lướt qua, trở thành một mảnh trắng xóa. Như thể ký ức của tôi đang bị xé toạc, bị đánh cắp bởi một thế lực vô hình nào đó, và ở trung tâm của tất cả, chẳng còn lại gì ngoài những hình ảnh mơ hồ chìm vào quên lãng. Có những ngày tôi di chuyển trong vô thức, hành động lặp đi lặp lại như một con rối bị hỏng, những câu chuyện nằm ngoài tầm với, trôi qua tâm trí như cát mịn, tan biến mỗi lần tôi cố nắm bắt và biến mất trước khi nó kịp hình thành một suy nghĩ mạch lạc. Những lần mất thăng bằng, những đêm thức dậy trong sự tê liệt của các cơ và sợi thần kinh ở chân đẩy tôi chìm vào lo sợ và nước mắt. Những dấu hiệu cảnh báo tôi rằng tôi dần rời xa Lê Duy An.

Lê Duy An làm cho tôi một cuốn sổ nhỏ, bìa da màu xanh với những vỏ sò và hoa ép khô tô điểm bên ngoài. Gã lo lắng rằng một ngày nào đó tôi sẽ cầm hung khí nào đó mà rượt đuổi gã bởi vì nghĩ gã là một tên biến thái nào đó mò vào nhà. Tôi nghe xong thì chẳng biết nên cười hay khóc.

Tôi không nói việc này cho bố mẹ biết, tôi biết là tôi nên nói, nhưng đâu đó trong tôi, tôi lại muốn ích kỷ chút đi. Tôi vẫn còn có thể chịu được, tôi không muốn bản thân chôn vùi trong bệnh viện quá sớm. 

Lê Duy An và tôi dành nhiều thời gian cho nhau hơn, mặc dù trước đó bọn tôi cũng như thế, nhưng không khí bây giờ lại mang đến một cái gì đó như tảng đá đè lên cảm xúc của bọn tôi.

Tháng Mười Hai len lỏi vào dưới da thịt bên bờ biển đậm nắng.

Tôi và gã dành hầu hết ngày ở ngoài biển. Đôi khi là tôi sẽ nhặt vỏ sò, còn gã sẽ chụp hình tôi, đôi khi là bọn tôi sẽ ngồi trên cát hàng giờ liền và chỉ nghe duy nhất một bản nhạc. Lê Duy An thì hay bảo tôi nên đổi bài, còn tôi thì lắc đầu bảo cái mp3 cũ này chỉ có thể phát một bài duy nhất. Gã không biết là tôi có nói dối không, nhưng gã không phàn nàn nữa.

Đôi khi tôi và gã sẽ trở lại gốc cây kỷ niệm của bọn tôi, sự thoải mái lan ra trong lồng ngực, nở rộ như một mầm hoa mùa xuân sau mưa, thứ cảm giác bước vào một nơi nằm ngoài thế giới khiến tôi say mê. Lê Duy An bảo rằng tôi đã chuyển tình yêu biển sang ngọn đồi mất rồi. 

Cái cây đứng cao và xanh lá trên nền trời trong trẻo không mây, những tán lá to rộng dang tay đón lấy gió, đung đưa nhẹ nhàng theo từng nhịp điệu riêng biệt của thiên nhiên. Mỗi một chiếc lá là một số phận mong manh, lấp lánh dưới ánh nắng tháng Mười Hai như sao vào ban ngày. Thân cây mang dấu ấn của thời gian, lớp vỏ của nó là lớp áo giáp hòa trộn giữa thời gian và sinh mệnh. Xung quanh gốc cây, cỏ sẫm màu và đẫm sương, một tấm đệm hoàn hảo cho những người lữ hành. Cái cây dường như tỏa ra một sức mạnh thầm lặng, vẻ đẹp và sự yên bình của nó là một liều thuốc xoa dịu tâm hồn tôi, đứng như một người lính canh im lặng dưới bầu trời rộng lớn. 

Tôi thì dang dở với cuốn sách trên đùi, còn Lê Duy An thì đang làm gì đó mà chẳng chịu cho tôi biết. Trong khi tôi đã đọc đến mỏi mắt thì gã vẫn chưa chịu cho tôi quay lưng lại cho tôi nhìn xem rốt cuộc là gã lại bày trò gì, tôi nheo mắt, lấy cùi chỏ thúc một cái vào hông gã, nhưng hình như tôi hơi mạnh tay.

“Anh đang bịa chuyện để khỏi nhìn mặt em đấy à?" Tôi nhỏ giọng mè nheo trong khi đang cố nhìn cho bằng được việc gã đang làm.

Lê Duy An bị thúc một cú bất chợt, giọng gã lại không mang theo một sự khó chịu nào, chỉ xoay sang một bên khác, chắn tầm nhìn của tôi, “Nào, em kiên nhẫn chút thì chết à?"

“Ừ,chết thật đấy", tôi cũng được cái cứng đầu, gã đã cứng thì tôi cũng chẳng mềm.

Đang lúc thuốc pháo sẵn sàng, thì Lê Duy An đã đặt lên đầu tôi một cái vòng hoa nhỏ được làm từ hoa xuyến chi. Tôi ngẩn người, tôi tuy không xinh nhưng được cái não load hơi chậm, cái tình huống đang giương đao rút kiếm bỗng được dỗ cho món quà bất ngờ khiến hệ điều hành chính thức chết máy. Cái tình huống này, xin lỗi tôi chưa biết xử lý ra sao. Đang lúc rung động ngọt ngào thì Lê Duy An nhân thời cơ tôi đang chết máy mà hôn vào trán tôi một cái. 

Lê Duy An thực sự là một gã trai đáng yêu.

Tôi biết, gã đang cố chiều theo ý tôi hết mức có thể, tôi biết là gã yêu tôi, và tôi cũng yêu gã.

Nhưng tình yêu này đang giết chết chúng tôi.

"Cháu có thường xuyên ngã không? Và cả tê liệt tạm thời nữa?" Chú bác sĩ vẫn thường hay gọi điện thoại cho tôi và lúc nào cũng quẩn quanh vài câu hỏi như thế. Tôi ậm ừ trong cổ họng, biết rõ bên kia điện thoại chỉ nghe được sự im lặng. 

"Cháu đã hứa, Chi. Cháu đã hứa rồi, nhớ không?" Khi vài phút trôi qua lặng lẽ trong bóng tối của màn đêm, chú ấy bắt đầu, giọng điệu vừa nhẹ nhàng vừa kiên quyết.

"Vâng, cháu dễ quên hơn, ngã nhiều hơn hôm qua hai lần, tay và chân run rẩy hơn."

"Cháu phải trở về. Quá nguy hiểm nếu cháu không tiếp nhận điều trị." Giọng nói của chú ngày càng kiên quyết hơn. 

"Đằng nào cháu cũng chết, phải không? Dù là có trở về hay không?" Tôi ngắt lời, giọng tôi như một giai điệu tuyệt vọng nhẹ nhàng, ám ảnh, tầm nhìn rơi vào cánh cửa phòng đóng chặt, "Chỉ một tháng nữa, cho cháu thêm một tháng. Được không chú?" Tôi thì thầm, giọng nói u ám như thể tôi biết chính xác điều gì đang làm tôi đau đớn.

"Cháu..." Chú nói, giọng nghiêm trọng, "Được rồi, một tháng. Sau đó nếu cháu không trở về, chú sẽ nói với bố mẹ cháu. Đừng tưởng chú không biết là cháu giấu bố mẹ."

Đó là một ngày xa xôi nào đó ở tháng bảy ôi bức, mùi thuốc sát trùng quen thuộc ập vào trong khoang mũi, xuyên thẳng đến não, màu trắng vô vị của những bức tường trong bệnh viên hòa lẫn với tiếng nhộn nhịp của bác sĩ, y tá và bệnh nhân được ngăn cách ngoài cánh cửa phòng khám riêng. 

Chú bác sĩ nghiêng người về phía trước, giọng nói nhẹ nhàng nhưng đủ nặng nề để làm không khí lắng xuống, "Cháu có biết nguy hiểm ra sao nếu cháu chạy đến một nơi mà những điều kiện y tế không thể đáp ứng cho bệnh của cháu không?" 

Tôi cảm thấy xương sống mình cứng đờ, cảm giác tội lỗi như một đứa trẻ bị mắng khi đã đưa ra những quyết định sai lầm.

Tôi nuốt nước bọt, cảm thấy sức nặng trong ánh mắt đổ dồn vào mình, nặng nề và tức giận của chú bác sĩ, "Cháu biết, cháu cũng biến là cho dù cháu ở đây hay ở đó thì cháu vẫn sẽ chết." Tôi bật ra một tiếng cười cay đắng, nghẹn ngào. Tôi đã hai mươi, tôi đã chẳng còn là một cô bé mười tuổi và chẳng hiểu gì về cái chết của bản thân.

 Tôi biết việc này sẽ khó khăn, nhưng tôi cần được chú ấy đồng ý trong việc này, như cách mà chú giúp tôi có thể đi học. Mẹ tôi sẽ tin lời chú hơn tôi.

Tôi biết rằng số phận đã định đoạt và tôi chẳng thể thay đổi. Nhưng tôi vẫn sẽ sống, và vẫn mong rằng bản thân sẽ làm hết mọi thứ tôi mong muốn trong thời gian hữu hạn mà ông trời cho phép. Tôi ghét việc chấp nhận rằng tôi sẽ chết trong sự tiếc nuối và nỗi nhớ về đủ thứ trong bốn bức tường trắng của bệnh viện với giấc mơ không thể thành hiện thực.

Chú ấy và tôi đã không nói gì với nhau trong suốt thời gian tái khám. Và rồi vào sáng hôm sau, mẹ tôi nhận được cuộc điện thoại từ chú.

“Chú biết là chú sẽ hối hận mà, cháu luôn là đứa phiền phức." Giọng điệu của chú dịu đi đôi chút.

Tôi cười, cảm nhận được sự nuông chiều từ bên kia đầu điện thoại, “Hẹn chú một tháng nữa." Cuộc trò chuyện căng thẳng kết thúc trong màn đêm tĩnh lặng. Một tháng nữa. Tôi muốn trải qua những ngày cuối cùng với Lê Duy An, sau đó tôi sẽ rời đảo và không bao giờ gặp lại gã nữa.

Cả tối, Lê Duy An khó chịu lắm. Gã cứ cáu kỉnh thế nào ấy, mà tôi lại chẳng thể biết là mình đã chọc gì gã. Khác với vẻ ngoài nhìn như trưởng thành lắm của gã thì Lê Duy An đang chỉ sở hữu một tâm hồn của một thằng nhóc. Tôi từng trêu gã rằng gã hệt như bọn con trai cấp hai trường tôi ấy, và tệ hơn cả việc đó là gã đang trong thời kì dậy thì muộn ở tuổi hai lăm.Từ ngày bà Năm mất, hình như căn nhà trống vắng hẳn, tôi có thể quên nhiều thứ, như tôi nghĩ, tôi vẫn sẽ luôn nhớ cảm giác ở bên cạnh bà. Tôi từng mong ước rằng, cuộc đời mình sẽ luôn có một người bên cạnh, một người bạn, như bà nội tôi và bà Năm, như Lan Anh và bạn của chị ấy. Giờ thì tôi có Lê Duy An, một gã khó chịu cộc cằn, nhưng gã yêu tôi.

Tôi đã từng nói rằng Lê Duy An rất giỏi nấu ăn, đúng không?Tôi cũng không biết vì sao một gã trai như gã lại biết nấu ăn, khác với cái nết của gã thì tài năng nấu ăn của Lê Duy An đáng được ca ngợi. Gã rất chú trọng việc ăn uống là đằng khác, ai mà nghĩ rằng một người nhìn có vẻ chẳng liên quan gì đến việc bếp núc lại có thể giành hàng giờ nghiên cứu dinh dưỡng, lên thực đơn và nấu ra một tác phẩm hoàn hảo như nhà hàng 5 sao. Lê Duy An luôn bắt tôi phải ăn nhiều, vì theo gã thì nếu thả tôi ra vào những ngày gió mạnh thì tôi sẽ bay đến phía bên kia quả đất, nhưng sau khi gã biết là do bệnh của tôi, gã bắt đầu đổi kết hoạch. Thay vì bắt tôi ăn vô tội vạ, gã xây cho tôi hẳn một chế độ dinh dưỡng chuyên nghiệp, đến mức chú bác sĩ sau khi nhìn thấy thực đơn của gã còn phải không tiếc lời khen ngợi.

“Cháu đúng là mèo mù vớ được cá rán mà," chú ta bảo với tôi như thế sau khi tôi gửi ảnh những bữa ăn của mình cho chú.

“Chú nói gì thế? Con mèo nó phải tuyệt vời thế nào thì mới vớ được con cá chứ?” Tôi phản bác.

Nói thật, tôi cũng không hiểu Lê Duy An thích tôi ở điểm nào nữa cơ. Bọn tôi quen nhau năm tá tuổi, vỏn vẹn ba tháng. Mười hai năm sau, bọn tôi gặp lại, cũng vỏn vẹn nửa năm. Tính tới tính lui, chúng tôi đã quen chưa đến một năm, vậy mà bọn tôi lại yêu nhau như thể đã quen biết mấy đời.

Nhưng hôm nay hình như tâm trạng đầu bếp không tốt nên chất lượng sản phẩm giảm hẳn. Tôi ăn được vài đũa thì tự cảm thấy bản thân sẽ không thể chịu thêm cái cảnh cá thì khê, canh thì mặn này được. Tôi phải dỗ dành Lê Duy An của thôi.

“Hôm nay anh không vui nhỉ?" Tôi cười cười, cố gắp cho gã miếng cá hoàn chỉnh đã được tôi nhặt xương ra. Gã không để ý tôi, tôi đương nhiên hiểu ý gã, Lê Duy An là một kẻ nhỏ mọn chết được, "Ngày mai ấy, tụi mình lên đồi chơi được không? Hoặc là chúng ta sẽ dậy sớm ra biển đi chợ nhé? Em thèm món cá sốt chua ngọt lúc trước anh nấu cho em kinh khủng."

Nhưng Lê Duy An có thèm để ý tôi đâu, cả bữa cơm, tôi vừa bị tra tấn tinh thần, vừa bị tra tấn thể xác. Cơm này thực sự rất khó nuốt, với tư cách là người bệnh, tôi thực sự không thể để bản thân phải ăn bữa cơm này lần nữa.

Tôi hết nước hết cái, dùng mọi thủ đoạn, cuối cùng cũng hiểu vì sao mà gã cáu, “Đại nhân à, ngài phán tội thì cũng nên để thảo dân biết bản thân phạm lỗi gì, để còn thuận tiện xám hối chứ?"

Tôi khóc lóc cầu xin gã, lại cảm thấy đáng lẽ gã nên mắc bệnh nhớ nhớ quên quên như tôi, chứ cái tính thù dai này, sẽ giống như những lời Lan Anh nói, Lê Duy An sẽ là cái chết của tôi mất.

Gã vẫn im lặng, mắt nhìn chằm chằm và không có bất kỳ chuyển động nào ngoài việc gắp thứ ăn đưa lên miệng. Tôi có thể thấy gã đang suy nghĩ, đang cân nhắc lời xin lỗi của tôi trong đầu. Rồi, bất ngờ một phần sự tức giận trong mắt gã biến mất. Nét mặt gã vẫn căng thẳng, nhưng gã rời mắt, đứng dậy rời khỏi bàn ăn, Lê Duy An đặt cả hai tay lên bàn bếp, tập trung mắt vào mặt bàn.

Và rồi gã rời đi trong cái nhìn của tôi.

Vẻ mặt và hành động của Lê Duy An khiến tôi không khỏi nghĩ đến những ký ức trước kia. Tôi biết rằng nếu tôi đã làm gì cho gã giận, thì chắc chắn nó không đơn giản là những lý do vẩn vơ như tôi nghĩ.

Đêm mà gã trở về, sau khi tắt điện thoại với Lan Anh, tôi vẫn không tài nào chợp mắt nổi, đành mở cửa sổ hóng gió đêm. Bóng lưng Lê Duy An hiện lên trên màn đêm khiến tôi chú ý, gã cứ đứng như vậy hết một giờ đồng hồ. Bóng trăng soi lấy bóng lưng, bóng lưng lại trải trên mặt đất, rõ ràng như thế, nhưng cũng mờ nhạt như thế.

Tôi không biết nhiều về gia đình bà Năm. Tôi chỉ biết bà có một người con gái, sau khi lấy chồng thì không về thăm bà thường xuyên nữa. Nhưng hình như lúc nãy tôi đã nghe gã bảo rằng gã đã không trở về nơi đây rất lâu rồi, vậy thì chuyện gì đã khiến những con người đáng lẽ phải gần gũi với nhau như thế, lại xa cách như vậy? 

Đời người có lẽ sẽ phạm rất nhiều sai lầm, có những sai lầm, sẽ chẳng thể sửa chữa, cũng như không thể thay đổi được hậu quả. Có lẽ, cả bà Năm và Lê Duy An đều đã phạm những sai lầm không thể cứu vãn, thì liệu rằng, tôi có thể cứu vãn không?

Lần thứ hai là khi bà Năm mất, đó cũng là đêm mà tôi không lựa chọn đứng phía sau nữa. Tôi muốn thay ánh trăng đêm đó bao bọc lấy bóng lưng gã. Tôi muốn thay bà Năm sửa lại những gì đã phạm.

Lê Duy An chưa hề rơi giọt nước mắt nào kể từ khi bà Năm đi. Điều đó làm tôi nhớ đến ba, cái đêm bà nội mất, ba tôi cũng hệt như thế, cũng kiềm chế như thế, để rồi gục ngã trong lòng của mẹ, trút hết những gánh nặng trong lòng. Tôi cũng muốn như mẹ, bao bọc lấy tâm hồn của một đứa trẻ đang vỡ vụn.

Bóng trăng soi xuống sân nhà, soi vào kẽ tóc, soi vào tim. Đêm đó, Lê Duy An ôm tôi rất lâu, rất lâu, bọn tôi cũng đứng rất lâu, trước cây hồng cũ kỹ đang trong thời gian thay lá. Gã đã kể cho tôi về nhiều thứ, về những sai lầm của gã, và của những người khác.

"Liệu rằng một người khi chết sẽ nghĩ gì?" 

"Sẽ nghĩ về những người họ yêu nhất."

"Lúc đó, bà đã gọi tên mẹ anh."

Mẹ của Lê Duy An, một người đàn bà số khổ. Khổ bởi nhiều thứ, khổ bởi chính những ý niệm cổ hủ của người xưa. Gã đã kể rằng gã sẽ không bao giờ quên cái đêm mà mẹ gã nằm trên giường bệnh thoi thớp với đôi mắt đã hằn sâu những cay đắng mà cuộc đời ban cho bà ở tuổi ba mươi sáu.

Ông ngoại gã chưa bao giờ chấp nhận chuyện tình của mẹ gã vã cha gã, một người xa lạ đến ở trên đảo vào một ngày xa xôi của nhiều năm về trước. Vốn rằng nếu như ba của Lê Duy An không xuất hiện, có lẽ mẹ gã sẽ chấp nhận ở cái nơi này, lấy một người được ông bà ngoại gã sắp xếp, rồi sống một cuộc đời bình lặng. Nhưng biển sẽ không bao giờ lặng gió, và đời cũng không có hai chữ nếu như. Ba của Lê Duy An là một nhà văn vào làng ở một năm để tìm gì đó mà theo ông bảo là cảm hứng văn chương và trốn chạy sầu đời. Cái làng này, toàn là dân chày lưới đi biển, cả đời chỉ biết làm thứ việc tay chân nặng nhọc, bán mạng cho biển. Tôi từng nghĩ, năm đó, ba tôi rời khỏi làng, rời khỏi đảo cũng bởi vì ông không muốn bị trói buộc bởi cái nơi mà cả ngày phơi nắng cháy da, lênh đênh bất định giữa biển cả mênh mông. Mọi chuyện dễ dàng hơn với ba tôi, là bởi vì ông là đàn ông, còn mẹ của Lê Duy An thì không.

Bà ấy theo như lời gã kể, thì đó là một người phụ nữ vốn đã được sắp đặt, sống một cuộc đời sắp đặt. Nhưng mọi chuyện chỉ thay đổi khi ba của Lê Duy An xuất hiện. Cái thứ mà ông ta đem lại cho ngôi làng luôn mới mẻ trong mắt người thiếu nữ mười sáu, với cái tâm hồn đầy tự do và trái tim của một người con gái, bà đã yêu người đàn ông đầy tài hoa này.

Một năm, đủ để tình cảm của một người nảy sinh, đủ để dệt nên nhiều thứ, tựa như sinh mạng của một sinh linh bé bỏng, Lê Duy An. Ông bà Năm ghét cay đắng người đàn ông lạ mặt đó, cũng không thể nào chấp nhận nổi việc con gái của mình có thai trước khi cưới, còn là với người đàn ông lạ mặt nào đó mà ông bà không quen biết. Nhưng tình yêu đã bám rễ sâu như một cái cây cổ thụ to trong lòng đất, mẹ của Lê Duy An chấp nhận vì tình yêu từ bỏ tất cả, rời khỏi vùng đất bà đã gắn bó gần như cả tuổi trẻ, rời khỏi sự trách mắng của ba mẹ, rời khỏi những thứ bà cho là ép buộc không hạnh phúc, đi theo tiếng gọi của tình yêu và tự do.

Đến năm Lê Duy An lên sáu, tình yêu của bọn họ tan ra như một giấc mơ hài hước trong hiện thực đầy bi kịch. Rốt cuộc thì tình yêu cũng không thể đấu tranh lại nỗi lo cơm áo, và cả hiện thực tàn nhẫn. Ba của gã rời đi không một lời từ biệt, không một lời xin lỗi, để lại một người phụ nữ và một trái tim vụn vỡ như thủy tinh. 

Một người phụ nữ hai mươi bốn tuổi, không bằng cấp, không kinh nghiệm, không một mối liên hệ, nuôi một đứa trẻ ở nơi phố thị xa lạ trở thành một cơn khủng hoảng. Bà ấy dường như sụp đổ, để rồi từ trong đống đổ nát tìm về với cha mẹ. Hai năm sau khi chẳng còn chịu được sự khắc nghiệt ở thành phố, bà dẫn Lê Duy An về với ngôi làng nhỏ trên hòn đảo đã giam cầm bà bấy lâu, chỉ cầu mong rằng ông bà Năm hãy giúp bà nuôi đứa con chỉ mới tám tuổi, nhưng họ lại lần nữa bắt mẹ gã để Lê Duy An lại và lấy người đàn ông khác, người đàn ông năm xưa bà đã phụ lòng. Một trái tim tổn thương chẳng còn muốn tiếp tục được yêu nữa. Trước sự ép buộc của ông bà Năm, mẹ của Lê Duy An chẳng còn biết làm gì hơn là chạy trốn. Ở thành phố, bà làm đủ mọi thứ để nuôi sống được gã, làm ngày làm đêm, chẳng đủ tiền ăn ba bữa cơm, nhưng bà ấy vẫn để cho Lê Duy An đi học.

Một ngày ba công việc, khiến một người phụ nữ trở thành một đống đổ nát về cả tinh thần và sức khỏe. Thứ bà bán đi để đổi lấy tiền không phải là thời gian hay công sức, mà chính là mạng sống. Mẹ của gã trở thành một tòa nhà sụp đổ,từng viên gạch nát vụn được đổi đi để xây dựng một Lê Duy An hoàn chỉnh. Lê Duy An từng muốn nghỉ học ở tuổi mười sáu, gã không chịu được việc nhìn người mẹ gã thương bị bệnh tật ăn mòn nhưng cả một đồng mua thuốc cũng không dám mua, chỉ vì đổi lấy vài cuốn tập trắng cho gã. Thứ mà Lê Duy An nhìn thấy lại chính là nụ cười an ủi của mẹ.

“Con yên tâm, mẹ không sao đâu, bệnh này chỉ cần ngủ vài tiếng là khỏi thôi. Giờ thì ngoan ngoãn đi học bài đi. Mẹ muốn nhìn thấy con của mẹ thành tài.”

Lê Duy An cũng từng lén nghỉ học để đi làm việc, để rồi khi mẹ gã phát hiện ra, bà đã tức giận đến mức chỉ biết khóc. Bà lôi gã đến trường, cầu xin thầy cô cho gã đi học lại, sau đó bắt gã xin nghỉ ở chỗ làm. Lê Duy An cứng đầu từ nhỏ, gã không chịu, mẹ gã cuối cùng đã quỳ xuống mà cầu xin gã, rằng gã phải đi học, nhất định phải đi học, cho dù là không thể lên đại học thì gã ít nhất hãy học hết cấp ba. Thế rồi Lê Duy An cũng phải thỏa hiệp, gã vẫn lén đi làm, nhưng không còn bỏ học nữa.

Sau này, mang theo sự nuối tiếc của mình, bà rời đi với căn bệnh lao phổi khi Lê Duy An vừa tròn mười tám tuổi. Bà ấy đã trả giá cho tình yêu của chính mình, cũng để lại nỗi ám ảnh cho Lê Duy An.

Rốt cuộc, thứ duy nhất ám ảnh Lê Duy An nhất, vẫn luôn là nụ cười của mẹ và những hành động tàn nhẫn của ông ngoại. Gã từng nghĩ rằng, gã sẽ hận ông bà ngoại đến khi chết đi.

Gã không chọn về với ông bà ngoại, gã chọn rong ruổi khắp nơi với một vết thương chưa lành.

"Cây hồng này là do mẹ anh trồng." Từ ngữ rời khỏi môi Lê Duy An và trôi vào không khí đang lơ lửng giữa họ, như một tiếng vang dài của quá khứ và những nỗi đau âm ỉ theo thời gian. 

"Bà Năm rất yêu cái cây này."

"Thay vì yêu người trồng nó?" Ánh sáng bạc của mặt trăng tròn vằng vặc bao quanh hình bóng của gã, khiến gã gần như trở nên mờ ảo như một giấc mơ dễ vỡ. 

"Không, vì yêu người trồng nó nên mới yêu nó."

Giấc mơ đang dần phai nhạt, nhưng thứ cảm xúc mà nó để lại vẫn còn, như một lời nhắc nhở về một bức màn mỏng giữa thế giới thực và thế giới ký ức.

Tôi hít một hơi sâu không khí vào trong phổi, cố gắng nở nụ cười, đôi môi cong lên với vẻ rạng rỡ không chạm tới mắt, “Anh đang nghĩ gì?" Giọng tôi lại thấm đẫm sự bất an, câu hỏi lơ lửng trong không khí.

"Anh đã nghĩ, mười mấy năm hận thù có đáng không, khi anh nắm lấy tay của bà trong đêm đó, anh chỉ cảm thấy bản thân là một thằng khốn nạn bất hiếu," Lê Duy An thì thầm, giọng nói mang theo một sự yếu đuối hiếm có vỡ ra trong không khí, "Hôm nay anh rất giận, em đã ở bên anh gần như vậy, vậy mà việc em bệnh nặng hơn, anh cũng không phát hiện được." Gã thở dài, sự mệt mỏi thấm vào giọng nói của gã như mực tan vào giấy.

“Em xin lỗi”, giọng tôi đầy tội lỗi. Tôi không ngờ Lê Duy An lại phản ứng như thế này khi tôi không kể cho gã nghe về bệnh mình. Gã trông đau đớn đến nỗi khiến trái tim tôi thắt lại trong lồng ngực. Đôi mắt tôi tràn ngập tội lỗi và sợ hãi, tôi có thể bắt đầu hiểu tại sao gã lại phản ứng mạnh mẽ như vậy với những gì tôi chưa nói.

Lê Duy An bước thêm một bước nữa và tôi không cử động, để gã nắm lấy tay tôi và đặt lên trên ngực gã. Ở dưới lòng bàn tay, tôi cảm nhận được nhịp tim đang đập thình thịch phía bên kia lồng ngực.

“Em xin lỗi.” Âm thanh đó gần như thoát ra khỏi môi, và rồi bị những cơn gió đêm cuốn đi. Tôi hơi dịch chuyển, ánh mắt tôi nhìn chằm chằm vào mắt gã. Sự nặng nề trong lời thú nhận của gã và những ký ức trôi lơ lửng trong tâm trí như thủy tinh vụn.

Trong một khoảnh khắc, có vẻ như gã đã tìm lại được sự bình tĩnh trong cơn bão, đôi mắt gã dịu lại và sự tức giận tan biến sau lớp biểu cảm trên khuôn mặt. Lê Duy An nắm lấy tay tôi, những ngón tay gã tạo thành một vòng tròn trên cổ tay tôi. Tôi nhìn gã, một sự tan vỡ hiện lên trên khuôn mặt tôi. Nhưng tôi không rời tay khỏi ngực gã.

“Chi,” Gã chậm rãi gọi tên tôi, những ngón tay tôi ngọ nguậy trên ngực gã. Lê Duy An siết chặt tay quanh cổ tay tôi và kéo nó ra, đặt lên môi. Khi gã thả tôi ra khỏi cái nắm của mình, cánh tay tôi buông thõng trước cơ thể. Và mặc dù toàn bộ cơ thể tôi cứng đờ, tôi vẫn đứng vững và nhìn thẳng vào mắt gã.

Lê Duy An đang sợ hãi. Tôi biết. Tôi cũng sợ, một nỗi sợ y như gã.

Chúng tôi ở bên nhau như thể không có chuyện gì xảy ra, tôi không hề có bệnh, và cũng không rời đi. Nhưng khi mọi chuyện diễn biến tệ đi, tôi lại tình nguyện giấu gã, vì tôi sợ, sợ rằng mình sẽ chết. Còn gã, gã cũng sợ, sợ rằng tôi sẽ âm thầm rời đi như cách mà mẹ gã rời đi. Lê Duy An của tôi, Lê Duy An của tôi, gã yêu tôi đến dường nào?

“Hãy nói với anh về mọi thứ, về cơn đau của em, về những gì mà căn bệnh đang hành hạ em, về sự đau khổ của em, về niềm vui của em." Giọng gã như một cái vuốt ve nhẹ nhàng lên lớp lông của sự bất an giữa hai chúng tôi. Gã lần nữa ôm tôi như cách mà gã ôm tôi dưới gốc cây hồng đêm đó.

Tôi khóc. Tôi khóc như một đứa trẻ.

Những ngày còn lại chìm trong ánh nắng vàng của tháng Mười Hai.

Lần này, tôi có thêm một lời hứa nữa, tôi vẫn hay gửi về những diễn biến bệnh của tôi cho bác sĩ, và hằng đêm, tôi sẽ kể gã nghe, về tôi đã ngã bao nhiêu lần, tôi đã quên những gì, tôi đã bị tê liệt tạm thời bao lâu.

Chúng tôi đều ngầm hiểu rằng cả tôi và gã sẽ không còn nhiều thời gian bên nhau nữa. Gã cứ giục tôi trở về thành phố để điều trị, còn tôi thì cứ bảo gã rằng nếu điều đó là cần thiết, bác sĩ sẽ bảo tôi.   

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout