Những tháng qua, tôi đã có những giấc mơ đẹp nhất tôi từng mong ước. Chúng đẹp đến nỗi tôi sợ hãi khoảnh khắc thức giấc và nhận ra mọi thứ đều không có thật. Những ngày trên đảo, tôi thấy mình sinh động hơn bao giờ hết, tránh xa những gánh nặng về bản thân và những tuyệt vọng về cái chết.
Nhưng mơ mộng là một điều nguy hiểm, nó khiến chúng ta có một ham muốn không thể lay chuyển là được ở lại, ngay cả khi sẽ mãi mãi không thể thức dậy. Mỗi khi tôi cho phép mình tin vào những điều tốt đẹp, tôi lại phải tự nhắc nhở bản thân rằng cuối cùng nó cũng sẽ kết thúc. Câu chuyện với một cái kết có hậu với tôi không có thật, dù tôi tuyệt vọng mong muốn chúng trở thành sự thật như thế nào.
Một cuộc sống hạnh phúc với Lê Duy An không có thật. Điều duy nhất có thể là cầu xin để nó kéo dài thêm một chút nữa.
Nhưng ngay cả khi bạn mơ, bạn cũng có cơ hội gặp ác mộng.
.
Bà Năm mất, trong một ngày bão cuối tháng mười một.
.
Tầm nhìn của tôi rơi vào phía trên trần nhà, cứ mất đi rồi lại lấy lại được sự tập trung. Tiếng chim hót trên cành tán tỉnh mấy chú bướm vọng vào lại có thể khiến tôi mỉm cười và thả lỏng bản thân, tôi thấy mình tạm thời buông đi những suy nghĩ về tương lai. Nắng cuối tháng mười một tràn qua ngoài cửa sổ, ngay cả một con người không phàn nàn gì về thời tiết như tôi cũng thầm cảm thấy dễ chịu. Lê Duy An đã ra chợ từ sớm, gã bảo tôi trông nhà vì hôm nay bà Năm vẫn còn chưa thức dậy. Tôi đã nghĩ rằng bản thân mình có thể lập kỷ lục thức sớm hơn bà Năm, cho đến khi có cái gì đó trong tôi dâng lên khi tiếng đồng hồ tích tách trên tường vang lên từng tiếng gõ báo tám giờ sáng.
Tôi đứng trước cửa phòng bà Năm, mỗi lần gõ cửa gọi tên bà là lại thêm một cơn run rẩy và nhịp tim đập nhanh hơn trong lồng ngực. Ý nghĩ về những điều xấu tràn vào trong não, thứ mà tôi cố gắng xua đuổi đi, cho đến khi tôi gõ cửa lần thứ bao nhiêu tôi cũng chẳng nhớ, mà người bên trong vẫn không mảy may lên tiếng, tôi có thể cảm nhận sự run rẩy của tất cả các cơ trên người tôi.
Khi Lê Duy An từ cổng nhà bước vào với những túi bóng lớn nhỏ, gã trố mắt nhìn tôi khi tôi lao nhanh về phía gã.
“Em...anh...bà Năm...” Tôi không thể nói được thành câu hoàn chỉnh, từ ngữ trong mấy mươi năm đi học của tôi tan ra như băng, bám lại vào trong nỗi sợ.
Tầm mắt Lê Duy An nhìn về phía cửa, trong một phần giây ngắn ngủi, như thể hiểu được lời tôi nói, gã buông tay vứt những chiếc túi trên đất, lao nhanh đi về phía phòng bà Năm.
Và cho đến khi gã đang chuẩn bị động tác phá cửa thường thấy, thì người bên trong đã mở cửa.
Có thể miêu tả một chút hoàn cảnh thế này, Lê Duy An, người đang lấy đà xông vào, cánh cửa phòng bỗng nhiên mở ra khiến gã mất đà, lao thẳng vào trong và ngã trên sàn một cách ngoạn mục. Bà Năm với độ mắt mở to nhất mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy ở bà đứng đối diện với tôi, người đang nước mắt đầy mặt cũng ngơ ngác trong hoàn cảnh này.
Các bạn đọc giả thân mến, xin hãy cầu nguyện cho đôi trai gái này.
“Tao thức muộn một chút là bọn bây nghĩ tao chết rồi hả?” Giọng bà Năm không phân rõ giận hay bất lực.
Tôi cúi gầm mặt, hít lấy hít để không khí với cái mũi nghẹn vì khóc. Lê Duy An gõ đầu tôi một cái mỗi khi bà Năm nói chuyện. “Cháu gõ cửa gọi bà mãi mà không thấy bà lên tiếng, nên cháu mới sợ đấy ạ.” Tôi yếu ớt đáp lời.
“Còn cháu thì thấy con nhỏ này nước mắt ngắn nước mắt dài thì cháu đã kịp biết gì đâu.” Lê Duy An thở dài chỉ tay vào tôi mà đổ lỗi (Tôi không có bảo gã đi phá cửa).
Bà Năm thở dài, phải uống một ngụm nước lấy bình tĩnh trước khi nói chuyện, “Hôm qua tao đau đầu nên có uống mấy viên thuốc. Ngủ sâu nên bây gọi tao có nghe gì đâu.”
“Bà bệnh gì mà uống thuốc thế ạ?” Tôi lao người về phía bà Năm như thể muốn nhìn rõ hơn sự khác biệt của bà với thường ngày, lo lắng mà sờ trán bà.
“Tao bảo tao đau đầu thôi mà.” Bà Năm đã kịp ngăn đôi tay tôi đang vươn trong không khí lại, nhìn tôi với vẻ mặt đầy bất lực.
Vở hài kịch buổi sáng xin phép được kết thúc, quý khán giả có thể đi về được rồi.
Bà Năm tiếp tục việc nghỉ ngơi ở trong phòng sau khi đã khẳng định một cách chắc chắn rằng sức khỏe của bà vẫn tốt như thể đôi mươi (tôi nghĩ bà bị ảnh hưởng bởi tôi mất rồi).
“Được rồi,” Lê Duy An hắng giọng, “Thế em đã chuẩn bị đi chưa?” Gã nhìn tôi với đôi mắt sáng rực, đầy mong đợi một cái gật đầu từ người đối diện là tôi.
Tôi chớp mắt, mân mê vân gỗ trên bàn trà. Chuyến dã ngoại tôi mong đợi từ đêm qua. Lê Duy An đã chuẩn bị rất nhiều thứ cho chúng tôi trong chuyến đi này, có cái gì đó mà gã rất mong chờ để cho tôi được nhìn thấy, mà theo gã nói, là kho báu của gã. Nhưng thứ gọi là giác quan thứ sáu nhạy bén của phụ nữ khiến tôi lo lắng, tất nhiên là tôi không lo chuyến dã ngoại có chuyện, chỉ là cảm thấy có thứ gì đó không muốn tôi rời khỏi nhà, rời tầm mắt khỏi bà Năm.
“Em không biết,” Tôi lắc đầu, theo thói quen cắn lấy vành môi dưới, “Em muốn ở nhà lo cho bà.”
“Không sao đâu.” Gã nhìn tôi qua khóe mắt với vẻ đầy cảm thông. Tôi biết gã cũng lo cho bà, có khi còn nhiều hơn tôi. Nhưng cảm giác lo lắng những điều xấu ập đến nuốt trọn tôi như một cơn bão cát, mờ mịt trong sự sợ hãi về điều không biết trước. Tôi thở dài trong lòng, tôi biết rằng gã đã chuẩn bị nhiều điều hơn là một chuyến dã ngoại đơn giản.
“Hoặc là...” Tôi lẩm bẩm, nhỏ giọng nói, “Em và anh chỉ đi một chút thôi, sau đó chúng ta sẽ về trước bữa trưa, được không?” Tôi ép môi mình cong lên thành một đường cong, nheo mắt – một nụ cười thỏa hiệp.
Đến giữa sáng, sau khi tôi chạy quanh bà Năm hỏi thăm hết mấy vòng, cho đến khi bà cáu lên mà đuổi tôi ra khỏi phòng bà, tôi và Lê Duy An mới nắm tay nhau đi ra khỏi cổng.
Màu xanh bám chặt lấy những gò đất cao như một tấm vải dày, che giấu đi những bí mật ẩn chứa theo thời gian. Khu đồi hiện lên với nắng sớm, tiếng xào xạc của lá cây và tiếng ong ong quen thuộc. Tôi đã ở trên đảo gần ba tháng, vậy mà vẫn chưa lần nào đặt chân đến "khu đất cấm" này. Chúng tôi cứ đi mãi, cho đến khi đến trước một gốc cây to ở giữa khu đất.
“Em có từng thấy nó trước đây chưa?” Lê Duy An lên tiếng, nghiên người về phía tôi, thì thầm bên tai.
Tôi nhìn chằm chằm vào dòng chữ trên thân cây, trong một khoảnh khắc, tôi giống như lạc vào ký ức, rời khỏi thực tại.
“Em còn nhớ không?” Lê Duy An hỏi thêm, giọng gã chỉ hơn tiếng thì thầm một chút, như thể gã đang thôi miên tôi nhớ lại những thứ tôi đã quên.
Tôi đã nhìn thấy nó chưa? Ký ức cào cấu tâm trí tôi như một con thú muốn thoát ra khỏi lồng sắt, những suy nghĩ dâng lên như thủy triều, sau đó lại nhấn chìm đi mảnh ký ức đã bị lãng quên. Quá khứ khuấy động tâm hồn tôi không ngừng nghỉ, kéo tôi vào sâu trong những gì còn sót lại của thời gian. Những ngón tay tôi lướt qua dòng chữ trên cây, sần sùi và ẩm ướt, “C&A”.
Những con sóng vào những ngày tháng cũ hiện lên tâm trí tôi, lấp lánh dưới ánh mặt trời như thủy tinh, và bóng của những đứa trẻ con sinh động nhảy múa trên cát.
Đó là mùa hè năm tám tuổi, với những cái nóng và gió hanh thổi xuyên qua da thịt.
“Anh à? Sao anh lại khóc?” Bóng mặt trời soi trên đỉnh đầu, bóng người dưới đất kéo dài ra từng khoảng. Cô bé nhỏ nhắn mang theo một chiếc túi lưới bên hông, nhặt những cành hoa đem về cho bà.
Thằng bé ngồi dưới đất không nói chuyện, cũng không ngẩng đầu lên. Cô bé nhìn vào người “bạn thân” của mình một cách khó hiểu, giống như nó không hiểu vì sao anh “bạn thân” của nó lại khóc. Tại sao con trai lại có nhiều nước mắt như thế?
Nhưng con trai thì sĩ diện lắm, nó hiểu mà, nên cô bé không hỏi nữa, ngồi một lúc, nó chạy đi mất.
Cho đến khi bóng cô bé khuất đi sau những con đường, thằng bé mới ngẩng đầu lên, trong mắt tràn ra nỗi đau mà một đứa trẻ không nên có. Có lẽ chính nó là thứ không nên tồn tại trên thế gian này, ba nó bỏ đi không cần nó, ông ngoại cũng không chịu nhận nó làm cháu, còn muốn mẹ nó đi lấy một người khác. Bây giờ ngay cả cô bé thường chơi với nó cũng bỏ đi mất. Nó có nên tồn tại trên đời hay không? Sóng biển không trả lời, gió thổi cũng không lên tiếng.
Đến khi niềm tin rơi chạm đáy và hy vọng về niềm vui kịp biết mất như nắng trên đầu, bỗng nhiên trên tay nó có thêm vài viên kẹo chocolate, nó ngẩng mặt lên nhìn, thì thấy cô bé hàng xóm đang cười với nó.
“Bà em lại nói, khi buồn thì ăn đồ ngọt sẽ không còn buồn nữa, nhưng mà em thích nhất là chocolate, nên chỉ có thể cho anh 3 viên”, con bé vừa nói, đôi mắt nhìn vào những viên kẹo trên tay thằng bé, lại cảm thấy tiếc của.
Thằng nhóc nhìn cô bé trước mặt, rõ ràng tiếc của như vậy, lại có thể cho nó thứ mà cô bé yêu thích.
Tiếng sóng biển cứ vỗ mãi, vỗ về bãi cát trắng, vỗ về cả tâm hồn của một đứa nhỏ.
“Cậu bé đó...” Tôi nhẹ giọng hỏi, mang theo một ánh nhìn xa xăm từ từ rơi trên người Lê Duy An, “Là anh sao?” Lời nói tôi ngập ngừng, sức mạnh của sự kinh ngạc đè lên trên dây thanh quản và sự hối tiếc đè lên ngực trái.
Ánh mắt tôi dừng lại trên người Lê Duy An, bóng cây rì rào theo làn gió vang lên mờ nhạt. Trong mắt gã hiện lên một cảm xúc khó gọi tên, một thứ gì đó sâu sắc hơn, một khao khát mà tôi không hiểu, một tình yêu mãnh liệt dâng lên trong lồng ngực như sóng thần.
“Anh nhớ ra em khi nào?” Tôi hỏi một cái tò mò, hoàn toàn là sự tò mò.
“Ngay từ lúc bà anh nói tên em,” Lê Duy An trả lời, giọng anh pha chút bất lực, “Vẻ mặt của em mỗi khi anh vô tình nhắc đến việc anh bị lạc trên núi rất đáng yêu.” Có cái gì đó trong tôi rơi xuống, à, là sự cảm động của tôi trong khoảnh khắc hồi tưởng lãng mạn này.
Đã bao lâu kể từ những năm tháng đó? Tôi thậm chí đã để những ký ức ở bên cạnh Lê Duy An vào trong quên lãng. Tôi còn nghĩ rằng mình thực sự nhớ rõ từng ngày tháng sống trên hòn đảo này như thể nó được khắc sâu trên đá. Có gì đó nặng nề đè lên lồng ngực khi ý nghĩ đó xuất hiện một cách không được mời gọi. Và dường như rằng nỗi sợ về những điều tương lai lại trở lại ám ảnh tôi, mỗi một ký ức sẽ dần biến mất qua kẽ tay tôi như cát, không dấu vết. Sự sợ hãi cào cấu tôi, trong một giây, tôi thực sự muốn khóc, không phải vì tôi đã quên đi một phần ký ức của mình, mà là tôi đã tỉnh dậy sau một giấc mơ dài – tưởng chừng như đó là sự thật.
“Em xin lỗi.“ Tôi thì thầm, giọng nói gần như tan ra trong không khí. Vùi mình vào ngực Lê Duy An, tôi mới cảm thấy đã tìm lại được sự bình tĩnh của bản thân.
Lê Duy An hơi nghiêng đầu để nhìn rõ biểu cảm của tôi, thứ mà tôi cố gắng giấu trong lồng ngực gã, “Nào, lâu như vậy rồi, quên cũng chẳng sao. Dù sao anh cũng đâu có trách em.” Gã nói, giọng kiên nhẫn như thể đang dỗ dành một đứa trẻ mắc lỗi.
Tôi rất muốn nói với gã rằng tôi vẫn nhớ gã, trong những năm tôi mới trở về thành phố, tôi vẫn còn mang theo ký ức về anh trai bên bờ biển lặng gió năm đó. Nhưng không biết từ khi nào, ký ức đó tuột khỏi tay tôi, biến mất như thể tro tàn bay vào không khí. Chỉ để lại một cái bóng mờ nhạt mà tôi không còn quan tâm. Tiếng cười khúc khích của gã vang lên bên tai, giòn như một miếng bánh quy mới nướng. Nó khiến tôi chùn bước trước những lời thú nhận đang ở trong cổ họng.
Tôi ôm lấy gã, ôm thật chặt. Liệu một ngày nào đó tôi quên đi gã, liệu rằng tôi có quên đi gã không?
Lê Duy An, thì ra tôi quen thuộc với cái tên này như vậy, là bởi vì đã từng có một đoạn thời gian, tôi chỉ mãi gọi tên Lê Duy An. Lan Anh từng hỏi rằng một con nhóc mười tuổi thì có thể nhớ bao nhiêu thứ về nơi mà nó sống vỏn vẹn mấy năm chứ? Tôi cũng từng nói rằng tôi nhớ tất cả mọi thứ nơi đây, nhưng thực ra, tôi cũng đã dần quên đi tất cả. Tôi đã quên nhiều thứ, tôi đã quên đi những lần tôi cùng gã nhặt vỏ sò ở biển, cùng gã bắt cồng dưới cát để bà nội nấu, từng cùng gã lén lên rừng khắc chữ trên cây.
"Đi tiếp nào, chưa đến nơi đâu." Lê Duy An nắm lấy tay tôi kéo về phía trước. Tôi mang theo vẻ mặt khó hiểu đi theo gã, "Còn chỗ khác sao?" Gã lại làm ra một vẻ thần bí.
Chúng tôi tiếp tục đi trên con đường mòn nhỏ, "Anh yêu em là vì chúng ta chơi cùng nhau lúc nhỏ sao?" Suy nghĩ đó lướt qua đầu tôi khiến tôi không thể nhịn được mà trượt ra khỏi cổ họng, phát lên thành tiếng.
"Hả? Em nghĩ lúc nhỏ em đẹp đến mức làm anh xao xuyến mong nhớ đến tận bây giờ hả?" Gã cười khúc khích trêu chọc.
Tôi bĩu môi bất mãn, buông tay Lê Duy An ra. Tôi biết là chuyện thanh mai trúc mã vương vấn từ nhỏ rất khó xảy ra với tôi, nhưng có cần thiết phải làm ra bộ dạng đó hay không? Tại sao cứ mỗi lần tôi đang cảm động vì gã, thì gã lại đẩy tôi một cái ra khỏi vùng mộng mơ cơ chứ!
"Nếu em muốn về trước bữa trưa thì em phải bắt đầu đi thôi." Trên khuôn mặt bảnh trai của gã là một nụ cười nhếch mép đầy thách thức, và tôi bỗng nhiên có một thôi thúc muốn lau sạch nụ cười đó trên mặt gã.
Tôi nheo mắt, miệng mím lại thành một đường thẳng và nhắm một cú đá thẳng vào ống quyển của Lê Duy An. Gã không tránh, nhưng tôi biết gã cũng không đau, vì tôi chẳng có chút sức lực nào để gây ra sát thương. Tôi lẩm bẩm vài câu mắng chửi trong miệng rồi đi về phía trước trong tiếng cười của Lê Duy An.
Mười phút sau, tôi hối hận về những lời nói đó, tầm nhìn của tôi quay cuồng khi nhìn thấy những gì trước mắt. Chúng tôi cuối cùng cũng lên đến nơi cần đến. Thì ra thứ mà gã muốn tôi thấy là cái này. Vì nó mà gã cứ bắt tôi đến đây thay vì lên trên cùng của ngọn đồi. Một khu toàn là hoa xuyến chi.
Bà tôi là người đặt tên cho tôi, Nguyễn Xuyến Chi. Bà bảo, hoa Xuyến Chi sở hữu vẻ đẹp lay động lòng người, rất hoang dại nhưng cũng khiến người ta mơ màng, cho dù là phong ba bão táp, hay là đất đai khô cằn, thì loài hoa này vẫn kiên cường sống, kiên cường nở xinh đẹp.
Mỗi khi tôi muốn bà kể chuyện, bà đều kể câu chuyện về loài hoa mà tôi mang tên.
Mọi chuyện bắt đầu từ một cô gái có một giọng hát tựa như tiếng thiên thần vọng xuống từ những giai điệu ở chốn thiên đường, một giọng hát mà chỉ có những người được trời yêu thương mới có thể sở hữu. Nhưng ông trời rất công bằng, ban cho cô một giọng hát hay, lại lấy đi dung mạo của cô, và con người thì lại là nột thực thể quá coi trọng cái đẹp. Đa số.
Rồi bỗng đến một ngày, khi mưa trên trời hóa thành cầu vồng, khi nắng hóa thành tiếng hát, có một người lữ hành vô tình đi qua cuộc đời cô, lại vô tình nghe thấy tiếng hát đó, lại vô tình đem lòng yêu cô. Đó là lần đầu tiên trong đời cô gái, cảm nhận được thứ mà mọi người gọi là tình yêu. Cô đắm mình trong thứ cảm giác mê hoặc đó, thứ cảm giác được che chở, được yêu thương từ người khác. Đó mà một loại cảm giác mà cô gái nguyện chìm vào trong, một niềm tin rằng rốt cuộc cũng có người yêu lấy cô, không phải vì ngoại hình của cô mà lùi bước. Đó là một giấc mơ có thực.
Nhưng giấc mơ khiến con người ta rơi vào ảo ảnh, và tình yêu lại là một thứ quá mong manh.
Cuộc tình nhanh chóng qua đi, người lữ hành quay gót rời bỏ đi, không một lời từ biệt, không một tiếng động mà xé toạc đi giấc mơ hạnh phúc của một người. Trái tim cô tan nát, vụn vỡ. Nhưng một người đã sống trong ảo ảnh không dễ dàng từ bỏ, bạn có thể nói cô ấy ngu ngốc, hoặc nói cô ấy điên loạn nhưng tôi sẽ nói cô ấy là một người có niềm tin. Cô vẫn không ngừng mong ngóng người cô yêu trở lại với cô một lần nữa, nuôi dưỡng hy vọng rằng trái tim của người đó luôn có một chỗ cho cô. Đợi cho đến khi kiệt sức và ngã xuống, trở thành một bông hoa màu trắng mang tên Xuyến Chi.
Tôi từng nói với bà tôi không thích cái tên này. Hoa Xuyến Chi quá cô độc, chờ đợi một thứ không phải của mình. Bà nói với tôi, hoa xuyến chi không đẹp, không quý hiếm, chỉ có một màu trắng đơn sắc, hoa mong manh dễ tan vỡ, nhưng lại kiên cường sinh sôi. Bà muốn tôi giống như nó, kiên cường sống trong giông bão.
Cho đến khi tôi lớn hơn, tôi còn hiểu thêm một ý nghĩa, hoa Xuyến Chi còn có nghĩa là "Vì yêu, mà chờ đợi". Vì yêu, nên cam tâm chờ đợi, chỉ vì một người cho đến khi héo mòn. Thật lãng mạn, nhưng cũng thật cực đoan, lại quá bi thương.
Vì yêu, mà chờ đợi...
Tôi mong rằng, Lê Duy An đừng bao giờ giống như bông hoa này. Bởi vì gã cho dù gã trở nên héo mòn như thế nào, cũng sẽ không thể chờ đợi được hoa xuyến chi nở.
Lê Duy An đứng phía sau tôi, ôm trọn lấy tôi vào lồng ngực gã. Ở vị trí này, tôi không nhìn thấy được biểu cảm của Lê Duy An, nhưng lại cảm nhận rất rõ hơi ấm phả ra từ người phía sau.
"Em thấy thế nào? Đẹp đúng không?" Nụ cười của gã nhẹ nhàng, đó là kiểu giống như một đứa trẻ đang khoe ra thành tích tốt nhất của chính mình cho người khác xem.
"Rất đẹp." Tôi đáp, tầm nhìn vẫn rơi vào phía cánh đồng hoa. Cho đến một lúc, tôi ngẩng đầu lên nhìn gã, thì thầm, "Đây mới là thứ anh muốn cho em xem sao? Không phải là cái gốc cây kỷ niệm đó?"
Lê Duy An cười toe toét đầy tự hào, "Cái đó là phần phụ thôi. Cái này mới là chính."
Và rồi đôi tay Lê Duy An vòng qua eo tôi, xiết chặt, lưng tôi áp chặt vào ngực gã, cằm gã tựa lên vai tôi. Mùi hương trên người Lê Duy An tràn vào khoang mũi, giống như thể tôi trở thành một phần của gã, một phần đã đánh mất trong nhiều năm. "Cô bé năm xưa đã cứu vớt anh trong giây phút anh hoài nghi về sự tồn tại của mình. Nhưng đó không phải lý do anh yêu em hiện tại." Giọng Lê Duy An như tiếng thì thầm mê hoặc, "Anh đã yêu em từ lúc nhìn thấy em đứng tránh mưa, từ lúc anh còn không biết em là ai."
Có một thứ gì đó bung ra bên ngực trái của tôi, thắp sáng trong lồng ngực. Trong khoảnh khắc đó, không ai trong bọn tôi lên tiếng, không có gì ngoài tiếng thiên nhiên thì thầm. Thế giới xung quanh như chìm vào ánh nắng và biển hoa. Trong một khoảnh khắc, thế giới chỉ còn lại hai chúng tôi ở nơi này, không có lo lắng hay sợ hãi, không có tương lai hay quá khứ, chỉ còn lại chúng tôi.
Và giây phút đó tôi đã biết, tôi tình nguyện chờ đợi tình yêu đến héo mòn.
Sự ấm áp của mặt trời bao lấy chúng tôi khi chúng tôi đi trở về nhà. Bọn tôi nói rất nhiều chuyện, gã kể cho tôi nghe về những chuyện lúc nhỏ. Gã bảo hồi đó ghét tôi vì tôi là một đứa lắm lời, thường hay làm phiền gã, nhưng vì thói chia sẻ kẹo của tôi nên gã miễn cưỡng bầu bạn với tôi.
Gã cười khúc khích, xoa tóc tôi như một đứa trẻ, "Lúc nhỏ em thích anh đến độ còn muốn lớn lên làm vợ anh nữa cơ." Gã thở dài, này ra nét mặt tự mãn, "Bây giờ cũng nên hoàn thành lời hứa đi chứ."
"Em có hứa thế à?", tôi lẩm bẩm, trong giọng nói không giấu được vẻ hoài nghi, mặt đỏ bừng dưới ánh nhìn của Lê Duy An. "Em không có nói thế!" Tôi sửa lại, không thèm nhìn gã lấy một cái mà bước nhanh về phía trước.
"Này, đợi đã! Anh đùa thôi mà." Lê Duy An nghẹn ngào giữa những tiếng cười khúc khích khi gã đuổi theo tôi.
Và ngay lúc đó, cơ bắp của tôi gào thét, bị khóa chặt trong một cơn đau đớn lan rộng như cháy rừng qua tứ chi, một lời nhắc nhở về những gì tồi tệ sắp xảy ra. Cảm giác tê liệt nhanh chóng tràn lên những dây thần kinh.
Tôi ngã xuống.
Đầu gối tôi khụy xuống khi tôi tiếp đất, cú va đập làm da thịt tôi run lên như thể một tiếng vang gào thét tàn nhẫn. Mùi máu tanh lan ra nhanh chóng qua các lớp biểu bì bị thương, hòa lẫn với đất ẩm. Tôi cố gắng hít lấy không khí vào phổi trong khi lấy lại quyền kiểm soát cơ thể đang run rẩy. Cánh tay bị rách da nhói lên khi những cơn gió liếm vào các thới thịt thương tổn, tê liệt nhanh chóng lan rộng, nhưng tôi vẫn không thể đứng dậy.
Lê Duy An chạy đến nhanh với một vẻ mặt đau đớn và hốt hoảng. Tôi không thể nói lời nào để an ủi gã, ngoài trừ đưa cho gã một cái nhìn bày tỏ rằng tôi không sao.
Nhưng rõ ràng tình trạng của tôi đang nói điều ngược lại, bụi bẩn và máu hòa vào nhau thành một màu đen đỏ xấu xí khiến người ta sợ hãi. Bây giờ nỗi sợ hay hoảng loạn sẽ không giúp gì được cho tôi.
Lê Duy An hít một hơi run rẩy, cổ họng gã phát ra những lời không rành mạch, "Em có sao không?" Và tôi cảm thấy cánh tay gã quấn chặt lấy tôi, nhấc tôi rời khỏi mặt đất. Tôi bám vào người gã, cảm thấy được nhịp tim hoảng loạn của người bên cạnh.
"Em không sao, đừng lo." Tôi đè lại sự run rẩy trong cổ họng.
"Chúng ta sẽ về nhà nhanh thôi." Gã thì thầm, dường như không nhìn vào mắt tôi và di chuyển với tốc độ nhanh chóng trong khi bế tôi trên tay.
Lại một lần nữa, tôi thức dậy trong một thực tại xám xịt đầy nỗi sợ và cái chết.
Căn nhà chìm vào im lặng khi Lê Duy An xử lý vết thương cho tôi. Cho đến khi sự lo lắng trong mắt gã chuyển sang dâng lên trong dạ dày tôi.
Quá im lặng.
Quá nhiều cảm giác xấu.
Bà Năm đâu rồi?
"Lê Duy An..." Giọng tôi run rẩy một cách kỳ lạ, nhịp tim đập trong cổ họng và sự bồn chồn lan ra khắp da, "Bà Năm đâu rồi?" Một cảm giác bất an dâng lên trong lòng, câu hỏi cào cấu tâm trí tôi, khơi dậy những ý nghĩ mà tôi không muốn nghĩ đến, nhưng lại không thể lờ đi.
Lê Duy An ngẩng lên nhìn tôi, và trong một giây, gã chạy đến phòng bà Năm, không ngừng gõ cửa gọi tên bà.
Gió nổi lên giăng kín trời.
Lê Duy An đã cùng bà Năm lên xe cứu thương đi đến bệnh viện ở trong làng. Tôi bị thương không thể đi lại nên không thể đi theo. Mưa mù cứ như trút nước, nhưng lại tút hết vào tim tôi, mây đen cuộn kín trời, sấm đôi lúc xẹt ngang xé toạc mây, rồi mây lại giăng kín lần nữa khoảng trời hỏng vừa xé. Lòng tôi cũng giăng đầy lo lắng, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng, bà Năm sẽ rời xa tôi, trước khi tôi rời xa bà.
Sức khỏe bà không ổn, sao lại giấu bọn tôi? Sao tôi lại không nhìn thấy sự bất ổn của bà, sao tôi còn rủ Lê Duy An lên núi bỏ mặc bà một mình. Sao tôi lại như thế? Nếu như bà Năm thực sự có chuyện gì, Lê Duy An phải làm sao? Tôi phải làm sao? Tôi thực sự rất muốn đến bệnh viện, ngay bây giờ, tôi muốn ở bên cạnh bà Năm, tôi cũng muốn ở bên cạnh Lê Duy An.
Bó hoa xuyến chi ở trên bàn, mong manh rơi ra từng cánh, mùi thơm thoang thoảng trong phòng, gió lùa vào nhà, thổi tung những cánh hoa mỏng, bay ra ngoài cửa sổ. Hoa xuyến chi cô độc.
Tang lễ của bà Năm làm khá đơn giản. Nơi này không có nhiều người, những người có qua lại với bà hầu như cũng không còn nhiều. Bọn tôi chỉ làm một ít mâm cúng cho bà và các lễ nghi bắt buộc. Lê Duy An không có vẻ gì là không ổn hết, gã còn an ủi tôi rất nhiều. Nhưng trên hết, tôi vẫn rất lo cho gã, tôi đã từng nhìn thấy ba tôi sụp đổ khi tiễn bà đi đêm đó, tôi cũng lo gã sẽ sụp đổ. Nhưng mà, gã có vẻ còn cứng cỏi hơn tôi nghĩ. Bà con đến viếng hết cả buổi sáng. Bọn tôi cũng bận hết cả buổi sáng. Nhưng ít nhất là như thế tôi sẽ không cảm nhận sự trống vắng của căn nhà.
Lê Duy An không kể với tôi bất cứ thứ gì vào ngày bà Năm mất, tôi hỏi gã, bà Năm có dặn dò gì không, gã lắc đầu không đáp. Có lẽ thực sự Bà Năm đã không còn gì để lo lắng, hoặc là gã không muốn nói cho tôi biết, sợ tôi lại buồn thêm. Nhưng tôi hiểu rõ, cho dù tôi có buồn đến đâu, thì nỗi đau này cũng sẽ nhanh chóng bị tôi quên đi, có lẽ đây cũng xem là một phần bù đắp của căn bệnh bồi thường cho tôi
Bình luận
Chưa có bình luận