Tôi đang đứng trên vai tượng ông Bình An thì nghe tiếng gọi:
- Xin chào! Cô tóc trắng… Này! Là cháu đó…
Đó là một vị Tua già nhưng thể hình rất cường tráng, chắc bạn cũng đoán ra là đàn ông rồi. Tôi ở “thế” này nhìn xuống nên phản ứng khá chậm, thành ra ngơ ngác, mãi sau ông ta trỏ tôi mới biết.
- Chào ông! – Tôi vội đáp, xoay thân sao cho lịch sự. Đoán rằng ông ta đi du lịch. – Ông cần giúp gì?
- Ông đi tìm… Ừm… Rừng Lãm và một số cư dân đặc biệt. – Ông nói ngập ngừng nhưng nghe rất rõ ràng, vẻ mặt thiếu tự nhiên, sau cũng lấy lại tự nhiên. – Ông nên tìm đức vua ở đâu nhỉ?
Tôi là một kẻ lương thiện và dễ động lòng nên vui lòng đáp:
- Đức vua… - Đang nói thì tôi cứng họng vì nhận thức được những thứ không nên nói, bởi vì quạ Mực đang ốm. - Nhưng ông gặp để làm gì?
- Ha ha… - Ông ấy cười rồi đặt tay lên ngực. – Ông là một nhà giáo ở thành phố Lận Đận. Nghe nói ở đây có ba Tua sống nhờ nên đến…
Tôi nhận ra có sự sai sót trong câu nói kia nhưng lại gạt ra khỏi tâm trí, nhường chỗ cho sự rối bời.
- Nhân tiện, nghe nói Đảo Lộc cũng có một số Tua. Họ đi đâu cả rồi? – Nhà giáo già vắt tay ra sau, hỏi.
- Họ già cả rồi, chỉ tìm chỗ định cư đến chết thôi. Nếu ông biết họ định cư ở Đảo Lộc thì chắc cũng biết sự kiện mười năm trước nhỉ?
Tôi vừa nói vừa nhớ lại kí ức. Nguyễn Thuyền có nói, trước kia Đảo Lộc là nơi dưỡng già của nhiều kẻ lữ hành.
Ông giáo lẩm bẩm gì đó trong miệng, vẻ chán chường lắm. Có lẽ ông cũng nói cho tôi nghe nhưng vì ở trên cao và khẩu âm kia lạ nên tôi chẳng hiểu gì. Lát sau, giọng nói kia lại từ dưới vọng lên:
- Cháu làm việc tự nguyện sao? Việc này sẽ không có tiền công nhỉ?
Nói đến tiền, tâm trí tôi hiện lên một khối hộp chữ nhật không dày lắm, bề mặt rất mịn trừ một vết gồ hoa văn nhỏ. Toàn khối màu vàng nhạt. Nó là kết hợp của rất rất nhiều viên đá rất rất nhỏ, đặc tính khác nhau. Thứ đá này quý giá và đem lại sự sống, nghe nói đốt nó đem ngửi thì sẽ kéo dài sự sống. Vì lẽ ấy, nó đủ điều kiện được gọi là tiền, tên phổ biến là Đức.
Lần trước, tôi thấy mẹ cầm một khối nhỏ, cà lên một cái hộp kính chuyên dụng có lưỡi sắc đặt ngang. Mạt tiền rơi xuống và hút vào nhau, lần đấy có vẻ là một gam “đức”. Nhân tiện nói thêm: Lượng tiền được đo theo khối lượng: một lạng bằng một trăm gam, mỗi gam khá ít nhưng cũng đủ làm cộm tay khi cầm.
- Cháu làm tự nguyện. Em cháu làm có công đấy, cậu ấy khoét tàu đóng thuyền gì đó. Nếu ông đưa cháu một lạng Đức thì cháu sẽ chẳng phải làm việc này trong nhiều ngày.
Tôi buột miệng nói, thoạt đầu có chút vội vã muốn nói nhưng tuôn ra hết rồi lại hối hận vì đã nói hết ra, mong rằng ông giáo chưa nghe được.
Ông giáo bỗng rơi vào trầm tư, như đang hình dung và suy nghĩ. Và rồi, tôi chẳng thể ngờ, ông ấy ném lên cho tôi một vật gì đó. Tôi không thể để nó bay lên rồi rơi xuống mà phải để nó rơi vào tay mình.
Xem nào, một khối lập phương màu vàng nhạt, hơi nặng tay, tỏa mùi thơm dịu nhẹ - thứ mùi được cảm nhận trong tâm mà sự thực thì chẳng có. Lúc ấy, dường như bộ máy sự sống trong thân tôi hoạt động dồn dập đến mức căng thẳng.
Tôi khẽ liếc nhìn xuống dưới, ông giáo đang mỉm cười. Tôi toan định trả lại cho ông ấy, mặc dù đây là một lạng Đức mà bất cứ ai cũng chỉ muốn giấu nó đi thật kĩ. Thế đấy, sự đời đôi khi thế, vật chất và tinh thần luôn kìm kẹp khống chế lẫn nhau.
Đó là lần đầu tiên tôi cầm trên tay tới chừng ấy tiền (không tính hạt Trầm Tích vô dụng năm xưa). Và đó cũng là lần đầu tiên tôi ngẩn ngơ đến ngại ngùng vì nhìn bóng lưng kia rời đi mà không cảm ơn, không từ biệt, miệng cứng đờ…
Tôi vội nhảy xuống tượng ông Bình An, chạy theo ông giáo, kêu lớn:
- Này ông ơi, chờ cháu với,
“Đó là việc ta ở thế giới nào làm, hiện tại thì không.” Tôi đặt tay lên ngực trái, cảm nhận cơn đau giảm dần và tiếp tục công việc.
…
Quán Tước Trâm mới mở cách đây hơn bảy năm, nằm gọn trong vườn trúc nhỏ, sát bên một hồ nước bị lá phủ bề mặt. Quán này chuyên dùng rượu sản xuất trong ống trúc và trà thảo mộc để trao đổi lấy lương thực. Quán này không vận hành bằng tiền, xoay quanh lời lỗ mà là tình – tình cảm dành cho một con sư tử già tên Lông Xù. Cái tên thật đáng nhớ. Tên thật của hắn là Ô Hồ Hởi.
Tôi quen gọi bằng cái tên cũ – cũng là cái tên mà lão Lông Xù thích hơn. Bầu bạn và chăm lo cho lão còn có nhóc chuột vàng Tiến Tùng – cậu đang ở trước mặt tôi đây.
- Chào chị! – Tiến Tùng nói, chất giọng tự do phóng khoáng và rất có chất “thơ”. – Chị bận gì mà muộn thế?
Tôi cười vẫy tay chào, mải nhìn khuôn mặt gầy trước mặt mà không để ý tự bao giờ trong bàn tay tôi đã có một ống trúc nhỏ. Nhớ ra điều gì, tôi trả lời em đại:
- Chị dậy muộn.
- Có chuyện đó luôn sao? – Cậu nhóc đeo lên mặt cái biểu cảm chê cười, hoặc là không tin.
Nhưng tôi không tập trung mà hoạnh họe cậu ta như những lần trước. Tạm biệt cậu rồi, tôi chạy tới phía kia. Ở đó một vị khách đang bưng ống trúc cho các vị khách khác. Vị này liếc mắt nhìn tôi, sao tôi có thể đứng tại chỗ được.
- Để tôi. Cảm ơn anh. – Tôi lại gần và giúp họ.
Quán Tước Trâm có rất nhiều gốc khoai môn khổng lồ nhưng đã kín khách đứng dưới – họ thích tận hưởng cái thanh mát và hương đất ẩm ở gốc cây. Tôi mang rượu cho một con gấu, nó nuốt cả vỏ ống trúc vào miệng; mang cho vợ chồng chuột túi và bầy chim chào mào.
Tôi mang trà cho những kẻ lữ hành không phải dân rừng Lãm: một con chim đại bàng, một con lừa, một lão Tua áo trắng đầu trọc, một chàng Tua áo xanh lục với đôi mắt lạnh lùng. Tôi nhận ra họ đều là những kẻ tôi đã gặp trên đường mòn, những bóng dáng ấy, sắc màu ấy lướt qua hời hợt trong mắt tôi, giờ nhớ lại được. Hương hoa thoang thoảng, chưa bao giờ quán lại có mùi hương dễ chịu như thế.
Tôi lại hỏi thăm một ông bạn già khổng lồ - chủ quán bấy giờ đang năm dài trên một khối đá tròn lót rêu xanh. Nhìn dáng nằm của Lông Xù, ai cũng nghĩ là hắn đang tận hưởng nắng ấm nhưng thật ra thì… Tôi buồn. Một ngày không xa trong tương lai, hai chúng tôi đã phải tạm biệt nhau rồi. Nhưng hắn cũng chẳng nhận ra tôi và cô gái năm nào là một. Đời là vậy.
Còn cảnh, còn rượu, không còn bạn. Bài hát kia…
- Anh bạn! Còn nuốt được không? – Tôi lại gần, đối diện cái đầu khổng lồ.
Lông Xù tuy đã già yếu nhưng vẫn uy nghiêm lắm. Bộ bờm hơi phồng lên, khẽ lay động trong gió thoảng, trông cái đầu nó như mẹ Hằng. Anh bạn to xác thích kiểu so sánh này, lần kia khi tôi bảo thế thì hắn vội nói tôi có khiếu thẩm mỹ. Nhưng tôi thì lại không hẳn nghĩ thế, đặt cái đầu ngờ nghệch ấy trên nền trời thì thật là xúc phạm trời và làm trò cười cho thiên hạ.
Lông Xù không mở mắt, hít một hơi và lẩm nhẩm:
- Rượu à? Ăn tốt chứ? – Nói xong thì nó há miệng.
Kiêng khem gì nữa chứ? Tôi đành cầm ống rượu trúc và ném vào cổ họng nó.
- Thay ca làm việc rồi à? Cô không chọn trực đêm à? Đêm dến đỡ phải làm việc, ngồi bầu bạn với tôi tí. Ban ngày cho con chuột kia làm.
Lão lại đãng trí rồi. Tôi nghĩ thầm. Lông Xù đã hỏi tôi vấn đề này khoảng mười lần trong mấy năm nay. Tôi từng làm đêm rồi nhưng lại thôi. Lí do đây, tôi vẫn đáp:
- Tôi không thích nhìn trời đêm!
“Chắc là không thích cho đến khi ta có thể thấy ánh sáng của tương lai thì sẽ thích lại.” Tôi thở dài, nghĩ thầm.
Tôi làm việc và ăn uống miễn phí ở đây đến khoảng giờ thứ tư ban chiều. Đây cũng là việc làm không công nhưng thú vị. Và nó… đẹp lòng mẹ tôi.
Đêm nay tuyệt vời đấy vì tôi thấy cô gái có bộ tóc đen bồng bềnh như đang lơ lửng, nhìn tư xa như đội mây trời vậy. Với góc nhìn nghiêng này, có thể thấy cánh tay trần kia, trắng tinh khôi và… mềm nữa…
- Nguyễn Uyên Nhi… - Tôi tự nói nhỏ một mình.
Trông em ấy như ma vậy, không rõ đã khỏi bệnh hay chưa… Tôi chợt có cảm giác là đã nhìn thấy cảnh này rồi, cũng đêm khuya, cũng một cô gái tóc bồng bềnh, đầm trắng tung bay, lướt đi như một cơn gió… Cái cảm giác này nghe đâu là bệnh nhưng vô hại.
Lại nói đến ma, năm xưa tại rừng tôi đã cũng tìm và thấy ma. Tại rượu cả. Lúc này, tôi lại chẳng dám chạy lại phía kia em sao, để em ấy khuất dần.
Tôi trầm mặc. Màn đêm cũng thế, tĩnh mịch đến cô đơn…
Bình luận
Chưa có bình luận