Phải đấu tranh tâm lí một chút tôi mới quyết định đi nhanh tới chỗ đối phương. Lúc này, tôi mới để ý, quần áo bị mục nát nhẹ và bạc màu. Tôi giảm tốc độ, cũng vừa tới nơi.
Có một bộ cánh chuồn chuồn rách nát, nằm động đậy dưới mặt đất. Tôi lấy làm lạ, có chút ám ảnh. Tôi nhớ ra rồi, hai chúng tôi không cùng một dân tộc. Có lẽ đó là lí do mà một kẻ bay tại nơi thật cao, một kẻ lặn ngụp trong nước lạnh.
Không, tôi vùng vẫy trong biển cả, đó có lẽ là sở trường của "dân tộc" tôi.
- Thấy thế nào? - Nguyệt Thục không quay lại, nói lớn, hẳn biết sự có mặt của tôi từ lâu.
- Ấm áp! - Tôi có chút bật ngờ và đáp luôn. Nghỉ một lát lại thêm một câu. - Vì đứng trên đây, tất nhiên ấm áp.
- Tôi… thấy lạnh! Cái lạnh của làng. - Cô ấy nói, tay phải chỉ xuống.
Ô! Bàn tay này sao cũng có những đường văn gần tương tự của tôi? Một ý nghĩ cám dỗ tôi nhìn xuống cả cái chân kia, thật may lí trí đã ngăn được, tôi đã tin điều tôi nghĩ.
Khoảng cách từ đây xuống đồi làng rất lớn. Tôi biết mình nhỏ bé thế nào. Nơi ngón tay kia chỉ, "cái đồng hồ cát" vốn khổng lồ giờ chỉ bằng bàn tay, nó cong vẹo qua một bên. Bụi đá từ đồi Bát Ngửa rơi như mưa xuống mặt nước.
Quả đồi này đã nhỏ hơn trước rất nhiều, hình dáng rất mất cân đối. Ôi, tôi hốt hoảng nhận ra, nước biển đã dâng ngập đồi Bát Úp, mặt nước chỉ còn lác đác vài ngọn cây cổ thụ nhô lên. Toàn cảnh trông như một tách rượu.
- Nếu một ngày… - Nguyệt Thục ngập ngừng rồi nói dứt khoát. - Cô có giao ước với quỷ dữ. Chúng đòi mạng sống thế gian, còn cô vì tình cảm nên muốn cứu thế gian. Để toại nguyện, cô phải đưa ra thứ gì quý giá hơn thế gian. Cô sẽ xử lí thế nào?
Câu nói cuối vừa dứt, cô ta nhìn thẳng vào tôi, đôi mắt cứng đờ không chớp. Tôi tiến lên vài bước nhìn xuống phía dưới vực sâu.
Gió lạnh lẽo thổi lên làm đôi chân muốn chao đảo, chẳng thể ngạo nghễ và cũng chẳng dám có ý nghĩ, phong thái ấy. Tôi lùi, suy nghĩ một hồi, cảm thấy không có câu trả lời nào tốt hơn rồi đáp:
- Đây là có lẽ là giao dịch trắng tay! - Câu đầu tôi có ý hỏi nhưng không thấy đối phương phản ứng nên nói tiếp. - Một thế gian và thêm cả tôi. Đáp án đấy.
- Thỏa mãn điều kiện. Nhưng mà… ngu xuẩn quá. Tôi có đáp án khác. Điều ấy tạo ra đối lập giữa hai chúng ta.
Nguyệt Thục lại gần, ghé sát môi vào tai tôi nói nhỏ. Ánh mắt hai chúng tôi chạm nhau, lòng tôi nhiều cảm xúc rối ren khó bày: tò mò, ngạc nhiên, một chút tức giận. Tôi muốn hỏi thêm nhưng lại thôi.
Nguyệt Thục lại bờ vực. Hai đôi cánh chuồn chuồn từ đâu nhô ra khỏi lớp áo mục nát, vài tia sáng yếu ớt từ trên bầu trời làm chúng trở nên lấp lánh nhiều màu tuyệt đẹp.
Cô ta la lên một tiếng rồi nhảy xuống, đôi cánh bung ra vỗ nhẹ, bóng hình khuất dần sau những cơn gió mang theo bụi và lá khô. Tôi nhìn xuống, định nhảy xuống nước. Nguyễn Thuyền, Nguyệt Thục, Ê Phủ đều có cánh, tôi thì không. Tuy vậy, dựa vào kĩ thuật, kinh nghiệm bơi, tôi tự tin thực hiện việc này.
Ngay khi gần tiếp nước, một cái đầu cá khổng lồ "bật" lên khỏi mặt nước, thân thể tôi vừa vặn uốn éo xuyên qua cổ họng nó. Tôi chạnh lòng nhưng sớm quên. Chẳng đau chút nào.
Khô Khốc chất có thể giúp tôi tùy ý khiến cơ thể cứng rắn hơn trước nhiều lần, giúp hạn chế lại nhiều nguy hiểm. Trong trạng thái Khô Khốc này, tôi không cảm thấy điều gì bất thường, sờ mới có thể nhận biết. Sớm quen thôi.
Bình minh. Ngắm một lát...
…
Nền móng của làng đã vỡ nát. Rất nhiều bóng hình không xuất hiện: Nguyệt Thục, bà Khiết, Y Nam và cả A Ma nữa. Còn có cả Y Hồng, nhắc đến tôi buồn.
Những Động vật cư ngụ ở làng hình như chẳng còn ai cả. Lúc tôi vào làng, bấy giờ làng không sống trong hang mà lên đỉnh đồi Bát Ngửa xây những ngôi nhà bằng cách xếp đá. Các Tua dựng một tòa nhà sàn lớn làm nhà chung. Vậy là Nguyễn Thuyền đứng đầu làng.
Tôi "nhập" làng, cùng với vài chục Tua sinh sống. Nạn đói xảy ra thường xuyên vì thiếu nguồn lao động đã mất.
Một năm trôi qua…
Tôi đứng ở hồ Thiên Hạ, nơi họ nói tôi sinh ra. Cỏ mọc um tùm. Cây Điều Diệu Kì vẫn già cỗi, vẫn dáng vẻ không thay đổi, bấy giờ có vài đóa hoa.
Tôi nhớ đến những bóng hình trong kí ức, thầm nghĩ: "Mỗi chúng ta ở mỗi nơi. Nếu lòng không đổi thì dù cho sông núi đổi thay, sao trời có đổi thì nơi ta đi, dưới chân luôn bằng phẳng, rồi sẽ gặp lại nhau."
Hôm nay, tôi lén lút bỏ làng, đi thật sự và không trở lại được nữa. Rời làng chính là phạm tội trọng, làng cần lao động mà. Hình phạt sẽ chẳng phải là ném xuống địa ngục đâu, mà là lao động khổ sai. Vậy là vài viên kẹo Nguyễn Thuyền nợ tôi cũng đã bị xóa sạch.
Tạm biệt pho tượng ông Công Tô, giờ ông đang nằm ngổn ngang ở một nơi nào không nhớ rõ. Khi tôi bước ra khỏi cổng làng, một con vẹt xanh tím vội vã bay đi. Tên của nó là A Nô.
Tôi nhìn vào hồ nước, một con quái vật đang nằm co quắp như một cục thịt. Chính nó đã nuốt tôi năm xưa… Tên nó là Vũ Diệu Thanh, Y Nam gọi thế, nghe thật xuôi tai.
Lòng hoài niệm, tôi sửa sang ngoại hình. Mái tóc xẻ qua hai bên. Quần áo màu xám nhạt, áo chéo cổ điển không trang trí và quần dày dài rộng, tôi mặc thêm áo khoác ngoài - cũng là túi hành lí.
Tôi đứng trên mép đỉnh đồi Bát Ngửa nghiêng. Sông núi nối đuôi nhau kéo dài tưởng chừng như vô tận. Thế giới này gọi là Song Giới. Nó phân đôi về mặt địa lí và xã hội. Tôi chú ý đến mặt xã hội hơn, là kiến nâu và chim trắng.
Nguyệt Thục hay Nguyễn Thuyền là những con chim ấy. Ranh giới ấy còn là sự tự tôn. Nhắm mắt lại tự thấy bản thân mình thua kém ai đó mà nỗ lực vươn lên. Còn tôi, chỉ cần một cọng lông vũ... là có thể bay.
Có một điều, Song Giới chỉ là cái tên mà dân gian quen gọi, thật ra thế giới tôi đang sống gọi là Cổ Tích Cầu.
Đảo này vô danh vì chẳng ai rời khỏi đây để rồi thấy cái gì mới lạ. Họ không tìm thấy hòn đảo thứ hai nên không cần đặt tên để phân biệt, "ngoài xa chỉ là biển cả thôi". Hôm nay nó có một cái tên, tôi đặt, Đảo Bữa Tiệc, vì có bánh và rượu.
Có nhiều kẻ ra đi tìm bạn đời, tìm thuốc trường sinh bất lão, phục hưng, báo thù hay cứu thiên hạ… Còn tôi hôm nay đi đến một nơi đã định, để sống vì biết rằng nơi tôi sinh ra không phải nơi tôi thuộc về. Đó là Đảo Lộc.
Từ nay tôi thấy "bốn bờ nước non". Tôi đi, khi ấy vừa tròn tuổi mười bảy.
Bình luận
Chưa có bình luận