Ngày 16 tháng Mười.
Chuông báo thức đổ lúc sáu giờ. Anh nhà văn choàng tỉnh sau một giấc ngủ ngắn. Anh không màng kéo rèm cửa lên để nhìn ra thành phố. Trong bóng tối còn đọng lại trên sàn nhà, anh xuống giường, bước vào nhà tắm và nôn oẹ. Lúc hai giờ sáng anh có uống một cốc sữa, quên mất chuyện mình bị dị ứng lactose. Sữa trào hết ra ngoài và bốc mùi chua loét như đã bị thiu từ mấy tuần lễ trước. Anh mở vòi nước tắm, liên tục đưa tay vuốt ngược tóc mình lên đỉnh đầu như muốn chải chuốt lại những suy nghĩ rối bù như. Anh thay một chiếc áo thun mới khô vừa lấy từ lan can hồi đêm.
Anh bước ra cửa, đi xuống bốn tầng cầu thang của cư xá. Toà nhà này được xây hẳn là từ khi anh chưa ra đời. Sự cũ kỹ của nơi này đã không còn trong biên giới xù xì của thực tại, mà lùi thật xa vào một vùng mơ hồ tựa như hồi ức. Toà nhà có lẽ đã từng rất đẹp và tinh xảo, ẩn náu sau những góc phố đông, chỉ đợi người thực sự có duyên tìm thấy mới phô bày những lan can xinh xắn nhô ra ngoài hứng nắng mưa. Giờ đây, lan can đã cũ, song cửa đã mòn. Toà nhà vẫn nép mình sâu trong phố, nhưng chỉ còn lộ diện trước những người buồn bã.
Anh dọn đến sống trong cư xá kể từ khi viết văn. Ở đây, anh có thể bộc lộ muộn phiền của mình mà không bị ai phán xét. Trong sự giam cầm mang tính bản nguyên, chữ bắt đầu tuôn chảy.
Bất chợt anh nhận ra mấy hôm nay mình không đi đâu. Bản thảo cuốn tiểu thuyết đã kéo tuột anh vào hố đen, bắt anh lúc nào cũng trong trạng thái yếu ớt như các nhân vật của mình khi bắt đầu hành trình trượt dài vào tuyệt vọng. Khởi thuỷ là một chút vết thương nhỏ, rồi to dần thành lở loét vô phương cứu chữa, từ đớn hèn thành thống khổ, từ vùng vẫy thành chịu đựng tuyệt vọng. Tiến trình là như vậy. Mọi hành động của mở đầu là điềm triệu cho kết thúc. Mọi cao trào ở đoạn giữa đều thúc đẩy tất cả rơi vào hỗn loạn. Thế rồi tất cả sẽ dừng lại, chỉ còn im vắng vô biên nằm sau dấu chấm hết câu.
Anh nhà văn nhận ra hôm nay anh nên đi đâu đó, một mình. Để anh thở một chút, trước khi quay về máy đánh chữ cùng những trang giấy để xô tất cả vào vực thẳm.
Anh đợi xe buýt ở bến gần nhà. Tầm năm phút sau, chiếc xe tuyến nội đô trờ đến, cửa rung lên rồi bật mở. Anh bước lên xe, tìm chỗ ngồi và xem hướng tuyến đường đi.
Xe đi về phía Đông Nam, ở trạm dừng thứ mười, từ đó đi bộ thêm khoảng mười phút, anh sẽ đến nhà Nâu Trầm.
-
Nâu Trầm là độc giả của anh.
Họ chưa bao giờ gặp nhau. Nhưng họ viết thư. Nếu tập hợp lại hết, những lá thư họ gửi cho nhau sẽ thành những kiện hồ sơ đồ sộ chất cao đến tận trần, khi xổ tung ra sẽ thành lũ lụt ngập trong phòng.
Nâu Trầm bắt đầu viết từ hơn một năm trước. Ban đầu, anh không quen với sự nhiệt tình ấy và chỉ viết qua loa để hồi âm. Nhưng theo những lá thư gửi đến ngày một nhiều hơn, anh cũng bắt đầu mở lòng và viết lại dài không kém. Nâu Trầm gửi đến, bình luận tình tiết trong tiểu thuyết và chép tay những đoạn dường như cô tâm đắc. Anh nhà văn gửi lại những lời cảm ơn chân thành kèm những ghi chép về suy tưởng của anh khi viết, về cách anh hình dung tình huống, nhân vật và những quyết định họ đưa ra đều dẫn đến một kết cuộc không thể nào cứu rỗi.
Nâu Trầm đã từng viết: “Dù kết thúc bao giờ cũng là dở dang hoặc buồn bã, văn của bạn luôn chứa đầy màu sắc. Người khác có thể không đồng ý với tôi và cho rằng bạn chỉ là một người viết một màu. Nhưng tôi tin vào những gì mình đọc được. Tất thảy mọi thứ bạn lựa chọn và sắp xếp lại bên nhau đều mang cảm giác rằng chúng được vẽ nên bởi một người rất hiểu về ánh sáng và cách ánh sáng tương phản qua bóng tối. Dù thoạt nhìn màu xanh xám là tông màu chủ đạo, cứ qua mỗi đoạn lại là một sắc tố rõ ràng, cùng với tính chuyển động chưa bao giờ làm tôi hết ngạc nhiên. Truyện của bạn giàu có vô biên về chi tiết, được bạn kể ra với sự nhạy cảm và lòng trắc ẩn rất đáng mến. Tôi thật lòng không hiểu vì lý do gì bạn chọn lối viết u ám muộn sầu như vậy. Tôi chỉ là người đọc mà thôi. Có lẽ một ngày nào đó, giữa tôi và cách viết này không còn mối liên hệ tinh thần nào nữa, nhưng đến chừng nào tôi còn cảm nhận được các sắc độ của nỗi buồn trong lời bạn kể, tôi sẽ còn dõi theo và cố gắng lắng nhe.”
Anh bắt đầu dấn sâu vào một mối quan hệ bất định, không có gì khác làm tin ngoài những bức thư. Ngoài tiểu thuyết của anh, họ bắt đầu nói sang âm nhạc và hội hoạ, về quá khứ và tương lai của thành phố, những ký ức mờ nhạt về một điều đẹp đẽ nào đó đã vuột qua khỏi tầm tay và những tia hy vọng mỏng manh rằng trong biển người vẫn có đôi chút niềm vui. Họ không còn đơn thuần là tác giả và người đọc nữa, mà trở thành bạn đồng hành trên một chuyến tàu dài đi đến một nơi xa xăm tít tắp, với đích đến không quan trọng bằng hành trình.
Dần dà, trước khi anh nhận ra, anh đã trở nên quá ỷ lại vào những lá thư. Anh viết cho Nâu Trầm nhiều hơn cô gửi lại. Anh khắc khoải đợi hồi âm, cáu gắt khi hòm thư dưới nhà trống rỗng và mừng rỡ vô vàn khi nhận thư mới, dù Nâu Trầm viết ngày càng ngắn. Anh tốn nhiều giờ đọc đi đọc lại những bức thư cũ và độc thoại với chúng, như thể từ những dòng chữ ấy cất lên tiếng gọi của người tình.
-
Một buổi đêm, rất muộn, khi âm thanh phố xá chỉ còn là những chuỗi thì thầm, anh ngồi dưới ngọn đèn bàn nhỏ, bắt đầu viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà vài tuần sau được đặt tên Giao Hưởng Cái Chết. Thế rồi anh chợt phát giác một điều không ổn.
Nâu Trầm đã không trả lời anh từ hơn một tháng qua.
Những lá thư anh đơn phương gửi đi trong suốt thời gian ấy đổ đầy chính bản thân anh, tràn lan trên giấy. Anh vừa liên thiên dông dài lại vừa hèn nhát dè dặt. Anh viết những điều không đâu vào đâu để che bớt nỗi hoang mang không biết cô có muốn đọc thư nữa hay không. Anh đặt bản thân mình vào trạng thái dễ tổn thương bởi nỗi tự ti sâu sắc, vừa muốn níu giữ vừa không biết phải làm sao. Anh không biết gì về người độc giả của mình mà cứ tưởng sẽ giữ được họ mãi mãi.
Trong nỗi u sầu tù đọng của cư xá, dưới ánh đèn leo lét và những trang bản thảo ngổn ngang, anh phát hiện ra rằng Nâu Trầm đang rời xa anh. Không! Cô đã xa anh rồi. Cô quay lưng đi và biến mất, không còn muốn lắng nghe anh thêm một lần nào nữa.
Anh ấn mãi một phím trên máy đánh chữ, toát mồ hôi và lên cơn choáng váng. Thật ngộ là cảm giác mất đi một độc giả lại không khác mấy với một cơn suy tim. Lồng ngực anh co thắt, phổi teo tóp, cơn đau lan tràn trong anh như có một bụi xương rồng sinh trưởng trong tích tắc, đâm triệu gai nhọn sâu vào ruột gan. Anh cố sức thở, ngả người về sau. Nhanh chóng và hiển nhiên, anh rơi vào tuyệt vọng. Tựa hồ như anh đi quanh một miệng hố sâu và cảm giác được trọng lực của hố sâu hun hút đang kéo mình xuống. Anh nhìn ngó, cân nhắc, rồi vẫn nhảy xuống hố. Anh phát hiện ra mình vừa làm chuyện vô nghĩa, mà không thể nào làm gì khác được, bởi bản thân đã tan nát dưới đáy sâu tối hù ấy.
Ngay cả khi anh rạn vỡ, ngoài địa chỉ Nâu Trầm đề trên thư, anh vẫn không biết một chút gì về cô.
-
Anh xuống xe buýt khoảng hơn mười giờ. Từ trạm dừng, anh đi bộ thêm hai dãy nhà, qua một đoạn bờ sông đang làm bến đỗ cho vài chiếc tàu hàng neo đậu và khu chợ nhỏ nằm dưới hàng cây rợp bóng. Trong tháng Mười trì trệ, cả người, phố chợ và tàu đều ù lì lê lết. Qua hết khu chợ là khu nhà phố nơi Nâu Trầm đề lên bìa thư gửi đến. Khu nhà trông như được xây từ hơn hai thập niên trước, với con đường nội khu chia cắt hai lô nhà xây đối xứng nhau, mỗi nhà có một khoảng sân nhỏ được bao bọc bởi hàng rào trắng ngà hoặc xanh nhạt. Nhà hầu hết cũng sơn màu nhạt, tường hơi cũ phai theo năm tháng nhưng vẫn còn giữ được vẻ trang nhã, khiêm nhường đặc trưng của kiểu nhà phố trung lưu. Một số nhà còn đặt hòm thư trên giá gỗ. Anh nghĩ, Nâu Trầm hẳn đã gửi thư cho anh từ một trong những hòm thư ấy.
Anh đứng sững người trước con đường im vắng rợp bóng bàng lá rộng. Anh chần chừ, không chịu bước tới. Ngay từ đầu, chuyện này đã định sẵn là hỏng cả. Anh chưa bao giờ giữ nổi bất kỳ ai. Có một chút nắng sáng trong phủ qua vòm lá rọi xuống mắt anh. Nỗ lực xác định màu của vòm lá và màu nắng của anh thất bại. Anh thấy mình tuyệt vọng.
Từ góc đường cuối khu nhà, một thiếu nữ dắt xe đạp tím xuất hiện. Từ xa nhìn đến, anh chỉ thấy cô có nước da hơi nâu, mặc quần jean xanh, áo thun có cổ sọc xanh hồng. Cô không đội mũ, để lộ mái tóc dày hơi rối phủ ngang vai. Anh nghĩ trông cô chừng hai mươi tuổi.
Cô dắt xe đến trước một ngôi nhà nhỏ, dừng xe lại cúi xuống rồi mở cổng rào. Dường như cô mỉm cười. Anh không rõ. Nắng dường như làm đau mắt anh, làm anh không đọc được nhiều biểu cảm trên khuôn mặt cô. Hoặc cô vốn dĩ không dễ dàng bộc lộ cảm xúc, như thể chuyện cười tươi thêm một chút, thoải mái hơn một chút không thuộc về cốt lõi sinh mệnh của cô.
Anh vẫn đứng im quan sát. Đó có phải là Nâu Trầm hay không? Cô gái bâng quơ ngắt vài bông sao nhái trong vườn rồi cột lại thành một bó hoa đoá tía đoá vàng đặt vào giỏ xe, có phải là cô ấy hay không? Dáng bước đi chậm rãi ấy có có giống những tiếng thở dài Nâu Trầm gửi vào thư cho anh hay không? Cô tiếp tục dắt xe đạp vào trong sân, rồi trong thoáng chốc cô nghiêng đầu nhìn về phía hòm thư sơn đỏ nâu đặt bên hàng rào.
Khoảnh khắc ấy dường như dài ra bất tận, chứa đầy ảo giác về những tiếng thở hấp hối xa xăm. Có gì đó nặng trĩu mà nhạy cảm vô phương thoáng lướt qua gò má của người thiếu nữ. Rồi dường như hoảng hốt vì mình vừa làm một việc không phải phép, cô vội lấy lại vẻ mặt bình thường, chôn những trĩu nặng xuống dưới nhiều tầng im lặng. Nghiêm mặt trở lại, cô dắt xe vào vườn, bước lên những bậc tam cấp, vào nhà. Cô biến mất.
Anh biết mình đúng. Không thể nghi ngờ được. Kiểu cách của cô gái thật chậm rãi, dè dặt, và trong sáng đến nỗi có thể khiến người ta buồn bã. Khi cô ấy biến mất, anh biết đó là chính cô. Hòm thư, những lá thư, sự từ chối không ngó ngàng đến những gì anh gửi đến. Không thể nào khác đi được.
Cùng lúc ấy, anh nhận ra rằng bất cứ gì xảy đến giữa những lá thứ, bất cứ viễn vông nào anh ôm ấp và níu kéo suốt bao tháng ngày qua, nay đã chết.
Từ trong trứng nước.
-
Anh rời khu phố, quay trở lại lối bộ hành ra chợ, bước qua khu bến đậu của những chiếc tàu nằm im lìm ban trưa. Anh mua nước ở trạm xe buýt, biết mình nên ăn gì đó để xoa dịu cơn đau xót trong dạ dày. Nhưng anh nhìn quanh mãi mà không biết nên ăn gì. Anh ngồi xe buýt qua nhiều trạm, xuống xe, đi tiếp đến trạm tàu điện, đi hết tất cả các trạm mà anh có thể. Anh đi mải miết, xuyên qua lòng thành phố như một sinh vật phù du trôi theo hải lưu. Tầm bốn giờ chiều, anh đứng trước toà thị chính và ngắm nhìn kiến trúc uy nghiêm ấy hồi lâu. Anh đến nhà sách bên kia đường và mua tất cả những số tạp chí mới ra trong tuần, rồi ghé cửa hàng tiện lợi để mua một ít hoa quả. Tất nhiên anh sẽ không ăn, để vài ngày sau chúng sẽ rữa nát rồi bị vứt đi. Anh bước tiếp theo hướng về cư xá, ngước nhìn bầu trời bị giới hạn bởi đường nét của các toà cao ốc. Anh nghĩ mình đừng nên trông mong bất cứ gì, kể cả ngày mai.
Hôm nay thật vô nghĩa biết bao, anh nghĩ thế, mà không còn chút nước mắt nào để khóc.
Bình luận
Chưa có bình luận