Trăng tròn vành vạnh, sáng đến nỗi chẳng cần đuốc. Ánh sáng chan hòa xuống từng gương mặt rám nắng, làm lộ ra nét hiền hậu chất phác của người quê lam lũ. Trong khoảnh khắc, chiến trận, hiểm nguy, nỗi lo cái chết như lùi ra phía sau. Chỉ còn lại tình người, tình đồng đội, tình quê hương dào dạt nơi sân doanh trại.
Rồi có người lặng lẽ buông một câu hát dân ca, giọng khàn khàn nhưng ngọt ngào như gió đồng nội. Người khác tiếp lời, thành ra cả bọn ngân nga, tiếng ca mộc mạc vang vọng dưới trăng, làm núi rừng như cũng lắng nghe. Và trong cái không khí nửa làng quê, nửa chiến trường ấy, ánh mắt mỗi người đều long lanh, như vừa say men rượu, vừa say cả ánh trăng rằm mùa thu.
Chơi trò hát đối đáp, cả sân rộn ràng tiếng cười. Diêu vốn người Nghệ, cất lên điệu hò khoan nhặt, câu chữ ngân dài, nghe như gió thổi qua triền đê quê cũ.
“Hò ò ơi ơi hò
Đến đây đàn hát vui chơi
Ánh trăng tỏa xuống như chờ đợi ai
Sông kia bên lở bên bồi
Chứ mong con đò cập bến để tìm người trao duyên.”
Giọng anh ta ngân lên một hồi như xé màn sương núi, khiến cả đám vỗ tay đôm đốp. Vài anh lính cười ha hả. Có anh Chính, người gốc Thăng Long dạt lên Hoàng Nghiêu xin theo nghĩa quân, tính tình cởi mở, trong bụng sẵn máu thơ phú. Nghe Diêu hò, anh lấy làm khoái chí, liền chen vào hát đối, miệng còn bạo dạn mà trêu:
“Ơi Diêu ơi hỡi Diêu à,
Anh hát nghe dẻo quá, chắc có o mô thương rồi?”
Cả sân cười ồ, Diêu giả vờ nghiêm mà cười, lại ngâm tiếp, lời nghe vừa đùa vừa thật:
“Hò ơ… Bần đây nghèo chẳng có chi,
Chỉ mong gặp gái thuyền quyên cho lòng đỡ quạnh.
Đêm nay rượu nhạt trăng hồng,
Ước chi có bóng o Bông ngồi kề.”
Đám lính lại réo:
“Ố dô dô! Anh Diêu nhìn vậy mà đã có người thương rồi hè!” rồi cười ngặt nghẽo.
Diêu bị trêu quá, xua tay lia lịa, cười méo cả mặt:
"Nào có người thương mô, ta chỉ có vợ thôi".
Câu nói vừa dứt, cả đám như vỡ ra thêm một tràng cười nữa. Có người vỗ đùi đen đét, có kẻ cười đến chảy cả nước mắt. Tôi cũng không nhịn được, bật cười theo, cười mà trong bụng vừa buồn cười, vừa là lạ, như có cái gì đó khẽ cựa.
Không khí rộn ràng như phiên chợ xuân.
Tôi bị xô tới, bị bắt díu hát cho vui. Nhưng trước giờ tôi có biết hát đối đâu, bối rối xua tay lia lịa, nhưng bị reo hò mãi thì chẳng còn đường lui. Mặt đỏ như gấc, tôi cắn cắn môi, rồi khẽ cất giọng không hò đối dẻo như Diêu, mà chỉ ngập ngừng ngân nga một bài vè hồi nhỏ bà hay ru tôi ngủ trưa.
“Nghe vẻ nghe ve, nghe vè con dế
Nấp dưới bụi tre
Re re rỉ rả
Đêm hè râm ran
Chân dài tấp tểnh
Râu vểnh, còm nhom
Lom khom đào đất
Gọi trăng gọi gió
Con dế gáy to."
Vè đến câu thứ ba thứ tư, cả trại nhưng bắt được nhịp mà vỗ tay theo điệu vè.
Tiếng hát của tôi không to, nhưng trong trẻo khiến cả sân đang ồn bỗng chốc nhộn nhịp. Mấy đứa con nít dưới làng Ó nghe câu vè của tôi mà lấy làm thích thú, đứa nào đứa nấy tay cầm đèn lồng nhảy chân sáo xung quanh đống lửa cười khanh khách.
Bất giác trong một góc, tôi trông trông thấy Nguyễn Chích nhìn tôi thật lâu, tôi cũng chẳng còn ngại ngùng nữa vì tôi bị anh nhìn nhiều đến mức quen rồi.
“Nghe vẻ nghe ve, nghe vè con dế
Dế đi chăn trâu
Dế ngồi ăn kẹo
Dế trèo cây cau
Dế bơi ngoài biển
Dế gọi trăng sao
Dế gào như sấm
Dế mặc áo gấm
Đi rước nàng tiên.”
Tôi lặng lẽ lách mình ra khỏi vòng người đang quây quần bên đống lửa trại, tiếng cười nói rộn rã dần khuất sau lưng. Men theo lối mòn nhỏ hẹp, con đường quen thuộc dẫn tôi xuống con suối nhỏ phía sau doanh trại. Ánh trăng rằm tháng Tám sáng đến lạ thường, chiếc mâm bạc chiếu rọi khắp núi rừng. Từng ngọn cỏ, từng chiếc lá ven đường đều hiện lên rõ ràng dưới thứ ánh sáng bàng bạc ấy, những hạt sương đêm đọng trên đầu ngọn cỏ như những ngọc nhỏ xíu lấp lánh.
Dòng suối nhỏ uốn lượn quanh co, nước chảy róc rách trong vắt, đến nỗi có thể nhìn thấy cả những viên sỏi trắng tinh nằm dưới đáy. Vầng trăng tròn vành vạnh in bóng xuống mặt nước, đang lay động theo từng gợn sóng lăn tăn. Tiếng nước chảy hòa cùng tiếng dế kêu rả rích, tiếng côn trùng rền rĩ trong đám cỏ, tất cả như điệu xướng ca đêm thu ngân nga trong gió, nghe sao mà thân thương, gợi nhớ những đêm trăng ở quê nhà thuở nào.
Tôi ngồi xuống một tảng đá lớn phủ đầy rêu xanh mướt, hai tay ôm lấy đầu gối, đưa mắt dõi theo bóng trăng đang dập dềnh trên mặt nước. Gió đêm khẽ luồn qua kẽ tóc, mang theo hơi lạnh se se của mùa thu và mùi hương man mác của cỏ dại, của hoa rừng, của đất ẩm. Trong lòng tôi bỗng trào dâng một nỗi nhớ mênh mang, da diết - nhớ mái nhà tranh đơn sơ nơi ven làng với giàn mướp xanh rợp bóng, nhớ tiếng ru ầu ơ của bà mỗi trưa hè oi ả, nhớ cái Tết Trung Thu năm xưa được mẹ cắt cho miếng bánh nướng đầu tiên, vị ngọt của nhân đậu xanh, vị bùi của thập cẩm, cái cảm giác hạnh phúc giản dị đến nao lòng.
Giờ đây, trong đêm trăng nơi sa trường, những ký ức bình yên ấy bỗng trở nên xa xôi, tựa như một giấc mơ đẹp nhưng khó nắm bắt. Tôi với tay xuống dòng nước, khẽ khuấy động bóng trăng, như muốn chạm vào những kỷ niệm đang dần tan biến. Tiếng bước chân ai đó khẽ vang lên phía sau, nhưng tôi không quay lại, cứ để mình chìm đắm trong không gian tĩnh lặng và nỗi nhớ quê nhà khôn nguôi này. Đêm trung thu nơi biên ải, với một binh sĩ như tôi, là những khoảnh khắc hiếm hoi được sống thật với cảm xúc của chính mình, được thả hồn về với những gì bình dị, thân thương nhất.
Âm thanh xào xạc nhẹ của bước chân giẫm lên lớp lá khô khiến tôi giật mình quay lại. Dưới ánh trăng rằm vằng vặc, bóng dáng Nguyễn Chích hiện ra như một bóng ma hiền lành. Anh không mang theo đuốc, cũng chẳng có người hầu vác binh khí đi kèm. Chỉ một mình anh, với ánh trăng bạc phủ lên đôi vai rộng, làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ trầm tĩnh, lạnh lùng vốn có.
Nguyễn Chích không nói một lời, cũng chẳng hỏi han, chỉ lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh tôi trên tảng đá phủ rêu. Khoảng cách giữa hai người vừa đủ để nghe thấy hơi thở, nhưng cũng đủ xa để giữ lấy sự tôn trọng. Rồi từ trong lớp áo vải thô, anh chậm rãi lấy ra một nửa chiếc bánh dẻo - chính là thứ bánh mà tôi vẫn thường chọn khi bày mâm cỗ, với lớp vỏ trắng ngần và nhân đậu xanh truyền thống.
Đôi bàn tay chai sạn vì cầm đao kiếm, nay lại nâng niu nửa chiếc bánh nhỏ một cách đầy trân trọng. Anh đưa nó cho tôi, động tác nhẹ nhàng đến bất ngờ. Trong không khí đêm thu se lạnh, hương thơm của nếp mới từ chiếc bánh tỏa ra ngọt ngào, quyện cùng mùi nhân đậu xanh bùi bùi, tạo thành một thứ hương vị an ủi lạ kỳ.
“Nhớ nhà à?” chủ tướng hỏi, giọng trầm mà ấm.
Tôi cúi đầu, khẽ gật. Một thoáng im lặng trôi qua, chỉ còn tiếng suối chảy đều như ru, như lời thì thầm của núi rừng trong đêm thanh vắng. Rồi tôi ngẩng lên, hỏi lại, giọng run run:
“Chủ tướng có nhớ nhà không?”
Nguyễn Chích không đáp ngay. Ánh mắt anh đăm đắm hướng về vầng trăng tròn vành vạnh trên cao, như muốn tìm kiếm điều gì đó trong sự tĩnh lặng của đất trời. Ánh trăng bàng bạc in bóng trong đôi mắt sâu thẳm ấy, khiến chúng trở nên thăm thẳm khôn cùng. Một làn gió nhẹ thổi qua, khẽ lay động mái tóc anh, mang theo hơi lạnh của đêm thu.
Một lúc lâu sau, giọng Nguyễn Chích mới cất lên, nhẹ nhàng mà đầy sức nặng:
“Nhà của ta… giờ là nơi này.” anh đưa tay chỉ về phía doanh trại phía xa, nơi ánh lửa bập bùng và những tiếng cười đùa còn vọng lại.
“Anh em ở đây, những con người cùng chung chí hướng, cùng vào sinh ra tử… họ chính là gia đình của ta.”
Câu nói giản dị ấy chứa đựng cả một trời tâm sự. Nó không phải là sự lãng quên quá khứ, mà là sự lựa chọn đối diện với hiện tại. Trong giọng nói ấy, ta nghe như ẩn chứa nỗi u hoài của bậc chủ tướng, cùng nỗi thương sinh thầm lặng của nghĩa sĩ nơi sa trường.
Hai người ngồi im lặng bên nhau, chẳng ai buồn phá vỡ khoảnh khắc tĩnh lặng hiếm hoi ấy. Thời gian tưởng chừng dừng bước, chỉ vầng nguyệt lặng lẽ men theo triền núi biếc mà đi. Ánh trăng bạc ngày càng trở nên trong vắt và tinh khiết, phủ lên vai một lớp ánh sáng mờ ảo, trắng mịn như tơ, khiến cho ranh giới giữa chủ tướng và binh sĩ dường như cũng bị xóa nhòa trong thứ ánh sáng huyền diệu ấy.
Tiếng suối róc rách điểm nhịp cho đêm vắng, trong âm vang ấy, như có tiếng sáo ai ru giấc mộng người xa. Những chiếc lá khô ven suối thi thoảng lại xào xạc, như thì thầm những câu chuyện bí mật của rừng thiêng.




Bình luận
Chưa có bình luận