Quân Nhữ Hốt lập tức rối loạn, kẻ ngã, kẻ chạy, không còn hàng ngũ. Hắn vội vàng gò ngựa tìm đường thoát, mặt mày tái nhợt, chẳng còn dám hét chửi như lúc đầu.
Cảnh ấy, trông như hổ bị dồn vào lưới, cá sa vào chài, cả bãi chiến trường bốc khói, tiếng la hét và tiếng thép va nhau chẳng khác chi sấm động mưa sa.
Nhân lúc địch đang rối loạn, kẻ thì chạy chữa đám thuyền lương cháy đỏ một góc sông, kẻ thì dẫm đạp chen nhau, Nguyễn Chích liền truyền lệnh. Vài ba cánh quân mai phục trong thung lũng hẹp liền đồng loạt ào ra. Chỗ núi hiểm, cây cối rậm rạp, từ ngoài nhìn vào chỉ thấy vách đá xám xịt, khó mà ngờ có quân nấp sẵn.
Bấy giờ, tiếng chiêng trống nổi lên, vang vọng dội núi. Quân ta ùa ra, gươm giáo lấp loáng, tiếng hò hét xé trời. Quân Minh bị kẹp chặt cả trước lẫn sau, hàng ngũ nát bấy, người ngựa chen chúc mà chẳng biết lối đâu rút. Ai ở trong cảnh ấy, tất sinh hoảng loạn, có kẻ còn nhảy thẳng xuống sông để thoát tên.
Độc giả lúc đầu tưởng Nguyễn Chích thua chạy, ai ngờ lại hóa ra bày sẵn mưu sâu. Nhưng Lương Nhữ Hốt vốn cáo già, thấy thế hiểm thì chẳng dám liều. Hắn bỏ mặc quân lính chết trận, chỉ cùng toán thân binh mở lối máu mà trốn ra ngoài. Quân ta dẫu bủa vây, vẫn để hắn thoát thân, như cá lươn trơn trượt.
Hắn thoát rồi, còn quay đầu hô to, giọng đầy giễu cợt:
“Hóa Châu của các ngươi đã mất, thành trì một phen thất thủ, Giao Chỉ này nay đã là đất của thiên triều. Các ngươi có chống cũng chỉ chuốc họa vào thân! Hãy chờ xem, rồi Hoàng Nghiêu cũng chẳng giữ nổi đâu!”
Nói xong, hắn thúc ngựa phóng đi, bóng dần mất hút trong màn khói bụi.
Quân ta thu dọn chiến trường, lửa thuyền lương vẫn cháy rực, khói cuộn đỏ cả chân trời. Kẻ sống sót của địch bỏ xác vũ khí, chạy trối chết. Người trong trại đều hả dạ, nhưng trong lòng vẫn còn tiếc, vì Nhữ Hốt một lần nữa trốn thoát.
Trận đánh qua rồi, các binh sĩ đều toàn mạng cả. Chỉ năm sáu người bị thương, phần lớn chỉ là trầy xước, nhẹ thôi. Trong lòng tôi như trút được gánh nặng, không ngờ một phen giáp mặt quân Minh lại có thể thoát nạn dễ dàng như vậy.
Đa Cấu cũng ở trong số đó. Lúc đó tôi thấy vai trái anh dính máu, lưỡi gươm chém sượt, để lại một đường sâu. Anh chẳng kêu than gì, chỉ xé áo của mình, tự buộc chặt vết thương lại. Khuôn mặt vẫn bình thản, như không có chuyện gì, chỉ hơi nhăn nơi khóe mắt.
Một lúc sau, chị Quế là chị gái lang y giúp tôi chữa trị lúc tôi bị trúng mũi tên của giặc Minh, lúc đó đi ngang, dừng lại. Chị ngó vết thương, không nói gì, chỉ ngồi xuống bên cạnh. Chị tháo mảnh áo buộc cũ, thay bằng băng vải sạch hơn, động tác nhanh gọn, chẳng hề rườm rà. Đến khi băng xong, chị đặt thêm một mảnh vải mềm bên ngoài, giọng nói khẽ, đủ nghe:
“Băng bằng cái này. Đỡ bị xước da.”
Mắt chị không nhìn anh, mà cứ cúi xuống vệt bùn đất dưới chân.
Đa Cấu cầm lấy, khẽ gật đầu, chỉ nói:
“Cám ơn cô Quế.”
Tôi đứng hơi xa, nhìn cảnh ấy, trong lòng chẳng hiểu sao bỗng dậy lên một luồng cảm giác khó tả. Ở giữa đám khói lửa, gươm giáo chan chát, con người vẫn có thể lặng lẽ mà dịu dàng đến vậy.
…
Sau trận ấy, doanh trại dần trở lại nếp thường ngày. Ban ngày, tiếng hò tập trận vang khắp bãi đất. Người cầm giáo, kẻ cầm cung, ai cũng ra sức tập cho quen. Đa phần vốn chỉ là nông dân, quen cày ruộng hơn cầm vũ khí, thành ra động tác còn vụng về, chém đao thì cứng nhắc, bắn cung thì lệch hẳn mục tiêu. Nhưng ai cũng cố, mồ hôi nhỏ giọt xuống đất, áo ướt cả lưng, mà chẳng ai than vãn. Người trong trại hay nói đùa: “Hôm nay tập, mai có giặc thì khỏi lóng ngóng như gà mắc tóc.” Nghe thì cười, nhưng bụng ai cũng hiểu, chẳng tập thì khi ra trận chỉ uổng thân.
Hết giờ tập, quân lính rủ nhau vui chơi cho đỡ mệt. Có hôm thì hát đối, có hôm thì thi vật, nhưng vui nhất là kéo co. Họ chia thành từng tốp, lấy dây thừng buộc lại, chôn cột mốc ở giữa. Tiếng hò hét vang một góc trại, chân người dẫm nện đất thành từng vệt dài. Bên này ráng sức kéo, bên kia ráng sức giữ, dây rung bần bật, bụi đất tung lên, người xem đứng vòng quanh reo hò, náo động cả buổi chiều. Có kẻ kéo mạnh quá, ngã lăn ra đất, cả đám cười rộ, xua đi cái mệt nhọc sau ngày tập trận.
Chiều xuống, sau buổi tập, anh em lại rủ nhau ra sân kéo co. Tiếng hò hét vang dậy, đất bụi tung mù. Bên này, bên kia, người nào cũng đỏ mặt tía tai, chân dẫm xuống như muốn xới cả mặt đất. Có kẻ ngã nhào, bị dây kéo lê, cả đám cười ngặt nghẽo.
Tôi với Nhuế chỉ ngồi ngoài cổ vũ, vỗ tay theo nhịp, lòng cũng vui lây. Những lúc ấy, doanh trại chẳng khác chi một phiên hội làng, người mệt cũng hóa khỏe, ai cũng quên bặt chuyện giặc giã.
Đến đầu giờ Dậu, quân sĩ dần tản ra, ai nấy lo tắm rửa. Nam nhân Đại Việt thân hình rám nắng, người nào người nấy hò nhau chạy ùm xuống bờ Hoàng Giang. Tiếng nước vỗ, tiếng cười nói vang cả khúc sông. Tôi đứng xa, quen cảnh rồi nhưng vốn dĩ không thể tắm chung, đành lẻn ra một ngách khác.
Tưởng chỗ vắng, ai dè đã có người. Nguyễn Chích đang ngâm mình dưới nước, sóng sông hắt ánh chiều tà lên tấm lưng rộng, cơ bắp cuồn cuộn, trên ngực còn lồ lộ hình xăm giao long đen. Tôi bất giác đứng khựng, tim dội thình thịch.
Anh cũng giật mình, thấy tôi liền vội thụt xuống, tay che thân, mặt đỏ hẳn. Giọng anh ấp úng, chẳng giống thường ngày:
“Ơ… cậu… tới à…”
Ánh mắt anh thoáng ngượng, thoáng như biết gì đó mà tôi không sao hiểu hết. Tôi bối rối quay đi, không dám nói, chỉ lẳng lặng bước sang hướng khác.
Mãi đến cuối giờ Tuất, khi quay lại, bờ sông đã vắng. Đang định ra xem còn người không thì có tiếng vọng ra từ sau bụi lau, giọng nhỏ mà trầm:
“Ta tắm xong rồi. Giờ cậu cứ xuống. Khuya rồi, tắm nhanh kẻo cảm lạnh.”
Tôi sững người, quay lại thì anh đã khoác áo ướt, lưng khuất dần vào bóng tối. Tôi chỉ còn nghe tiếng chân bước xa, để lại mình tôi với mặt sông lặng ngắt, lòng ngổn ngang chẳng nói được thành lời.
Buổi tối đó, khi bóng tối đã phủ kín doanh trại, khi ánh lửa bập bùng in bóng những người lính mệt nhoài sau ngày dài luyện tập, khói bếp tỏa ra hương thơm mùi nếp mới, cũng là lúc mấy anh em lính tráng rủ nhau quây quần trước sân, bày ra trò ô ăn quan. tỗi cũng xắn áo chen vào, tay thoăn thoắt, mỗi lần gom được cả vốc quân, tôi liền cười khanh khách. Anh em toàn kêu trời vì tôi toàn thắng, bảo tôi khôn lỏi.
Đến cả Diêu cũng phải chống nạnh mà thốt:
“U chu choa, Sa mà có làm quan binh, chắc không nhờ chém giặc, mà nhờ… ăn vặt của giặc đến khi nào nó cạn lương thì thôi!”
Cả đám phá lên cười, tôi đỏ mặt trợn mắt:
“Ông chỉ được cái nói bậy!”
Nhưng trong bụng cũng đắc ý, vì dù bị chê khôn lỏi, tôi vẫn là kẻ thắng cuộc.
Đang lúc cao hứng, bỗng một bóng người dài đổ xuống bàn cờ. Chủ tướng của chúng tôi, đã đứng đó tự lúc nào, hai tay khoanh trước ngực, ánh mắt đen láy dõi theo từng đường đi nước bước. Im lặng hồi lâu rồi chợt cất giọng trầm ấm:
"Cái kiểu rải quân lia lịa, rồi lại giả vờ đếm nhầm này... ta đã thấy đâu đó rồi".
Bỗng có vài người anh em đang chăm chú xem thì ngước lên hỏi:
“Ở đâu vậy chủ tướng?”
Anh đứng yên một lát, khóe môi nhếch nhẹ:
“Cách chơi này… giống hệt một cô bé ngày xưa. Nó cũng hay ăn gian, rải quân thật nhanh, rải không đều để người ta khó mà đếm cho kịp.”
Tôi nghe, mặt thoắt nóng ran. Quả thật… cái trò ấy chính là thói quen của tôi từ hồi bé. Tôi chống chế, cãi lấy cãi để:
“Chủ tướng nói ai thế! chủ tướng nói oan cho tôi rồi! Tôi chơi ngay thẳng, có ăn gian thì trời tru đất diệt!"
Tôi ngồi như trời trồng giữa vòng người đang cười nói rôm rả. Những viên sỏi trong tay bỗng chốc trở nên nặng trĩu. Trong lòng tôi chợt ùa về ký ức của những trưa hè oi ả năm nào...
Đó là cái thuở tôi còn là con bé Bành nhỏ xíu, chân đất chạy lon ton trên con đường làng đầy rơm rạ. Cái nắng tháng ba như đổ lửa xuống mái đình cong cong, hắt bóng những cây đa cổ thụ xuống bờ ao. Lũ trẻ trong xóm không đứa nào chịu chơi ô ăn quan với tôi, vì cái tội tôi hay "ăn gian", chúng bảo thế. Thằng Tí đứa vừa bị đá một cú vì cái tội trêu tôi với thằng bé câm kia, đến giờ vẫn còn sợ chẳng dám lại gần tôi, thằng Tèo anh họ thằng Tí vừa thua một vố với tôi, bị tôi trấn mất con ve sầu nó vừa bắt được hôm bữa. Tất cả đều lắc đầu nguây nguẩy khi thấy tôi đến gần.
Thế là tôi đành phải lôi cho bằng được thằng bé câm được tôi giải vây khỏi trận đùa cợt của tụi thằng Tí hôm trước. Sở dĩ tôi phải gọi nó là “thằng bé câm” bởi tôi gặp nó mấy lần rồi, hỏi tên nó không thèm đáp, nếu không thấy nó từng vâng dạ với bà ngoại tôi thì tôi tưởng nó câm thật sự luôn, tuy biểu cảm nhăn nhó có chút kháng cự nhưng nó vẫn ngoãn ngồi xuống bậc thềm nhà. Nó có đôi mắt to đen láy nhưng lúc nào cũng đượm vẻ buồn rầu, da nó ngăm đen vì nắng gió, cái áo vải thô lúc nào cũng rách vai. Mỗi lần thua, nó lại cúi gằm mặt xuống, những ngón tay gầy guộc vuốt ve mấy viên sỏi mà nó đã kỳ công nhặt từ con suối đầu làng. Có lần tôi thắng quá đà, lấy hết cả "quân" của nó, nó ngồi im lặng hồi lâu mặt như muốn khóc lắm nhưng cố kìm lại, nước mắt đang chực chờ tuôn ra. Tôi khi ấy vừa buồn cười vừa thấy lòng mình quặn lại...
Sau này theo bà lên huyện, tôi không còn gặp lại thằng bé gầy gò ấy nữa. Giờ đây, giữa doanh trại đầy khói lửa chiến tranh, tôi chợt tự hỏi, không biết nó giờ ra sao? Còn nhớ đến con bé hay ăn gian ngày ấy không? Hay cuộc đời xô đẩy khiến nó đã trở thành một người hoàn toàn khác, như chính tôi bây giờ?
Tiếng cười đùa của mấy anh lính vang lên, kéo tôi trở về thực tại. Tôi cúi xuống nhặt những viên sỏi cuối cùng, lòng bỗng dâng lên một nỗi niềm khó tả. Có lẽ, những trò chơi thuở ấu thơ ấy mãi mãi chỉ còn là ký ức, như hương lúa mới thoảng qua rồi tan biến trong gió...




Bình luận
Chưa có bình luận