Gươm Và Núi





Tin vừa dứt lời, một người mặt rám nắng từ làng Ó lao vào doanh trại, tay vẫn còn dính bùn, miệng há hốc, nét mặt như người vừa chạy hàng chục dặm. 

Người làng vội vã quỳ xuống, thở không ra hơi, từng tiếng như búa bổ:

“Thưa chủ tướng, quân Minh đã đánh dồn dập giáp mặt. Họ bày trại dọc bờ sông phía Đông, cắm cọc, nhóm lều. Bọn lính tráng đông, xe ngựa nhiều, bọn nó gom thuyền lương ở những bến nhỏ. Họ đang tiến phủ quanh chân núi, hình như chúng có ý vây núi.”

Lời vừa dứt, trại như chấn động. Người nào người nấy mặt biến sắc, tiếng thì thầm hóa thành tiếng kêu to:

 “Thật ư? Họ lại tới?”

Chủ tướng đứng lên, mặt không đổi sắc:

“Tin đã chắc chứ? ”

Người làng gật đầu:
“ Chắc. Người ra chợ nói thấy cờ hiệu, người bến nói thấy thuyền chất đầy lương. Bọn nó cắm trại ở chốt ven sông, bờ đông kia.”

Nghe vậy, Nguyễn Chích quay sang Tư và vài người trinh sát làng Ó, nói gọn:
“Ngươi dẫn người về chỗ cũ, dò kỹ bến đỗ. Ngươi biết chỗ nào hẹp nhất, ghi rõ. Ta cần tường trình chi tiết trong canh ba.”

Rồi anh trở vào giữa trại, giọng cương quyết, truyền xuống từng mệnh lệnh:
“Từ giờ phút này, toàn doanh tăng phòng thủ. Phân chia nhiệm vụ rõ ràng, người giữ cổng, người canh bến sông, người lo lương thực, tất cả phải được sắp xếp ngay. Kho lương phải dời vào hang đá, thuyền nhỏ cất hết, con đường mòn sau núi khẩn trương sửa sang thành lối rút lui. Tất cả binh sĩ nghe cho kỹ, giáp Đông là nơi địch có thể tập kết, ta phải bố trí quân dọc theo con đường ấy, từ ven sông lên tới sườn núi. Đêm nay phải cắm thêm ba lớp canh gác, đến sáng việc thay phiên canh phải hoàn tất, tuyệt đối không được sơ hở.”

Lệnh vừa truyền, các đội khăn gói xốc tới việc. Người thì chạy đi bộc cọc, đóng chông, người thì gấp rút mang đá, ngổ cỏ, chôn hố ngụy trang. Đa Cấu dẫn một tốp đàn ông khỏe, đi ngay ra bờ Hoàng Giang, đi thăm các bến, buộc dây thuyền, đưa dân chài trú ẩn. Đội khác được lệnh dựng bù nhìn, quất cờ, giả như lính lớn để đánh lừa kẻ trinh sát.

Người dưới làng Ó, nhiều người vốn biết nghề đắp thuốc, được giao nhiệm vụ chữa bệnh, dặn dò lấy bông, lấy rượu thuốc, sắc lá thuốc để sẵn trong túi. Tiếng nẹp gỗ, tiếng búa, tiếng gọi nhau rộn ràng khắp doanh, mọi người đều tay xách nách mang, không ai nhàn.

Chủ tướng đi qua từng lều, đến đâu cũng hỏi thăm, lương thực còn bao nhiêu, bao nhiêu ngày ăn, ai là người biết chèo thuyền, ai biết đường nước, điểm danh kỹ càng. Dừng lại bên một góc, anh nói nhỏ với Sa:
“Che giấu mọi động tĩnh của quân ta. Người lạ hỏi han, khéo mà đuổi cho đi.”

Tôi chỉ gật đầu, giọng nghẹn:
“Dạ!”

Bến sông phía Đông được đặt nhiều người canh. Dân làng Ó tụ hội, họ đem thuyền chèo lặng, cột chặt vào thùng, đốt lửa giả để thăm dò phản ứng giặc, có đám còn lén thả vài béo thuyền nhỏ chở trấu giả làm mồi để coi xem có người dòm ngó không. Nếu địch nhúc nhích, phục kích bật lên.

Trong đêm, trại thắp ít đèn, chỉ giữ lửa nơi cần thiết, các tiếng trống canh điểm đều, bồ câu truyền tin được gói cẩn thận, chỉ phóng đi khi có hiệu lệnh. Dọc đường mòn, cọc chông được nhét đầy gai, đầu cọc nhọn được vác lên sườn đồi, đợi kẻ qua chân. Những chỗ nước nông đặt ròng rọc, chờ lúc địch lội qua thì túm lấy chân ngựa, làm rối đội hình.

Nguyễn Chích cùng với các binh sĩ lớn tuổi đang bàn tính số lương: 

“Nếu chúng chở lương theo sông, ta đốt thuyền chúng, chúng sẽ khó bề tiến. Nếu chặt họ ở bến, họ hoảng, cơm không có, quân sẽ rỉ rả tan.”

 Lại có người phụ họa:

 “Ta nên cho dân làng lên núi che chở, tránh thương vong, thuyền chài sẽ giúp ta ban đêm.”

Sáng hôm sau, khi mặt trời nhô lên, từ bờ Đông quả nhiên người thấy lấp ló cờ, trại dã, đoàn xe chở lương dừng ở những chốt ven sông. Nhìn xa trông như một dải đen chạy dọc bờ. Từ góc doanh, vài người áp tai nghe, giọng họ nghẹn khàn: 

“Đúng rồi. Bọn chúng đã đến.”

Nguyễn Chích đứng yên, mắt nhìn về hướng đông, rồi quay lại, giọng vẫn bình tĩnh mà chắc:
“Nếu địch muốn đánh, ta sẽ cho họ thấy Hoàng Nghiêu không dễ hạ.”

Bầu trời phủ một màu chì xám xịt. Những đám mây đen vần vũ, lặng lẽ kéo về từ phía chân trời như một lời báo hiệu chẳng lành. Gió thổi từng cơn lạnh buốt, cuốn theo bụi đất và lá khô, khiến cả vùng Hoàng Nghiêu chìm trong không khí u ám, ngột ngạt. Nắng không còn, chỉ còn lại thứ ánh sáng mờ nhạt, le lói xuyên qua tầng mây dày đặc, in bóng những ngọn núi như những bóng ma khổng lồ đang trầm mặc chờ đợi. 

Giữa giờ Tỵ, có tin cấp báo, một đoàn kỵ binh giặc theo đường sông tiến thẳng tới làng Ó. Lúc đầu ai nấy đều kinh hãi, ngờ dân làng còn ở lại. Song trước đó, chủ tướng đã cho dời cả thôn vào rừng sâu, già trẻ đều theo đường nhỏ mà tản cư, nên trong xóm không còn một bóng.

Quân giặc tới nơi, chỉ thấy mái tranh bỏ hoang, cột nhà xiêu vẹo, lúa má trong sân đã được dọn sạch. Đèn đuốc soi khắp, chẳng gặp ai, chúng mới thả ngựa cho ăn cỏ dại. Người trong làng nhìn lén từ ven rừng, nghe tiếng vó mà run, nhưng vẫn yên ắng giữ kín tung tích.

Nhờ vậy, bẫy địch đặt ra càng được thong thả. Đêm tối, trống canh điểm dồn, quân ta giấu binh trong các lùm tre, hố sâu đã đào, chông gỗ cắm khắp lối. Chỉ chờ khi giặc rút quân qua, tất sẽ sa vào kế ấy.

Đó là một ngày của tiết đông tháng Chạp. Trời xám đục như phủ bụi tro, mặt trời sắp lặn chỉ còn một vệt đỏ mỏng quệt ngang cuối trời. Gió bấc từ thượng nguồn thổi dồn xuống, luồn qua áo vải mỏng mà buốt đến gai người. Không khí khô hanh, lạnh sắc như kim, thở ra cũng thấy khói trắng mờ.

Bờ Hoàng Giang sẫm lại. Nước sông mùa đông nặng và lừ đừ, sắc tím chì pha ánh đồng xám, mỗi gợn sóng vỗ bờ đều tỏa ra hơi lạnh tê tê. Lau sậy hai bên bờ nghiêng rạp trong gió, xạc xào từng nhịp như tiếng thở dài của đất trời. Trên cao, mấy cánh chim chiều bay muộn, chao nghiêng một vòng rồi mất hút vào khoảng mây xám tro đang trùm xuống rặng núi.

Núi Hoàng Nghiêu đứng sừng sững, đá xám phủ rêu, bóng tối từng bước lan lên triền. Trong rừng rậm quanh núi, cây cối chen nhau, cành lá tối om, không còn phân biệt được lối. Chỉ nghe ve sầu đã thưa tiếng, thay bằng tiếng côn trùng rỉ rả, xen lẫn tiếng cuốc kêu văng vẳng. Cảnh vật vừa tĩnh, vừa gờm, như có hơi thở dữ dội của binh đao sắp tới gần.

Quân Lương Nhữ Hốt bủa vây bốn mặt Hoàng Nghiêu. Lần này chúng tính toán kỹ, còn cho quân theo đường sông Hoàng Giang để áp sát. Nguyễn Chích biết thế, bèn lệnh cho dân làng Ó lén kéo nhau ra sông, hò dô mà đánh úp thuyền lương. Thuyền có mấy tên giữ, chẳng giỏi giang gì, bị đánh bất ngờ thì rối, chưa kịp trở tay. 

Khi quân hai bên vừa chạm mặt, Nhữ Hốt cưỡi ngựa đi đầu, áo giáp lấp lánh, miệng cười khinh bỉ. Hắn giơ tay ra hiệu dừng trận, quát to giữa bãi:

"Nguyễn Chích! Ngươi vốn mang thân phận áo vải, lấy gì mà chống nổi Thiên triều? Đất Giao Chỉ này, từ xưa vốn là quận huyện, nay ngươi cựa quậy dám chống lại, thật hoang đường! Thôi thì hãy bỏ binh khí xuống, theo ta quy thuận. Quân Minh trọng người có tài, ắt sẽ cho ngươi ăn sung mặc sướng, danh vị chẳng thiếu!”

Nghe vậy, Nguyễn Chích vẫn ngồi yên trên lưng ngựa, mặt không biến sắc. Một lúc sau mới cất tiếng, giọng rắn như sắt:

“Hoang đường? Phải làm nô lệ trên chính quê hương của mình đó mới thật sự là chuyện hoang đường. Tổ tiên ta máu xương bao đời mới dựng nên giang sơn này. Nay ngươi bán nước, hèn với giặc, ác với dân, chỉ mong đổi chút chức tước, thế còn mặt mũi nào nhìn con cháu đời sau?”

Nói đoạn, tôi thấy chủ tướng đứng uy nghi trước gió, mặt ngẩn cao hô:

“Là người Đại Việt, dẫu nghèo rách cũng không cúi đầu theo giặc. Thân này có tắt thì cũng tắt trên đất mình. Nhữ Hốt! Ngươi là phường chó săn, không đáng gọi là người!”

Nghe xong người nào người nấy máu lửa hừng hực, hô theo:

“Thịt da này là của nước Nam, quyết chẳng quỳ gối dưới quân nước Bắc.”

Nhữ Hốt nghe xong, giận run người, quát lớn: “Được! Để rồi xem, các ngươi chỉ là một tên dân nổi loạn, chỉ đáng làm mồi cho gươm giáo!”

Nói đoạn, hắn thúc ngựa, hò reo cho quân xông lên.

Trận đánh bùng nổ dữ dội, gươm đao loang loáng, tiếng hò hét vang dội cả núi. Nguyễn Chích dẫn đầu trăm quân, đánh thẳng vào toán tiên phong của Nhữ Hốt. Hai bên chửi rủa, gươm giáo chạm nhau tóe lửa, tiếng thép chan chát như sấm. Nhưng rồi Chích bất ngờ ra hiệu, giả vờ lúng túng, cho quân dần lui bước.

Nhữ Hốt thấy thế, mừng rỡ, cười to: “Ha! Ta đã nói rồi! Lũ ô hợp thì chống được ai!” Hắn liền thúc ngựa đuổi theo, quân Minh cũng reo hò, tưởng chừng đã bắt được Chích trong tay.

Nhưng nào ngờ, ngay lúc ấy, từ hai bên khe núi hẹp, hàng loạt kèn lệnh thổi lên, âm thanh dội vào vách đá nghe rùng rợn. Rồi từ trên cành cây rậm rạp, đâu đâu cũng vang tiếng “vút vút”, hàng trăm mũi tên ào ào như mưa bão, nhắm thẳng xuống đầu quân giặc. Bên dưới, những toán quân ẩn mình lâu nay cũng ồ ạt xông ra, hò hét vang trời, gươm giáo rực sáng.

Chú thích:

[1] Thiên triều: ý chỉ triều đình phương Bắc

4

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout