Lúc đó, tên Diêu chẳng biết từ đâu xông đến, trên tay cầm cái bánh tro, trong miệng còn nhai nhồm nhoàm, bỗng vỗ bốp bốp vai tôi đau điếng:
“Cha cha, giừ mi láu cá lắm rùi nghe, dám cãi cả chủ tướng rồi. Hắn mới nói cho có tiếng mà mi dám phang lại rứa là răng hè? thế ni là phạt, phạt ni uống cạn chén rượu thì chủ tướng mới tha thứ, đúng không chủ tướng?”
Tôi bật cười, nâng chén hướng về phía chủ tướng rồi một hơi uống cạn. Ban đầu Nguyễn Chích định ngăn bảo tôi uống ít thôi vì còn bị thương, tôi cũng vốn chỉ định nhấp chút rượu cho ấm bụng, nào ngờ Nhuế chuyền tay chén bát, rượu nếp thơm nồng lại thêm miếng thịt lợn nướng vàng rộm, mùi mỡ quyện khói bếp… càng uống càng thấy khoan khoái.
Chẳng biết từ lúc nào, tôi đã cười nói hăng hơn cả lũ Diêu, đầu óc lâng lâng, men cay xộc lên tận óc. Tiếng sáo, tiếng trống, tiếng người hò hét dội vào tai như sóng vỗ, càng lúc càng rộn.
Nguyễn Chích lắc đầu, bảo nhỏ với mấy người ngồi gần đang muốn ngăn cản tôi uống ít rượu lại:
“Thôi, mặc hắn. Vết thương chưa lành đã ham vui, say rồi thì tự biết.”
Tôi thì chẳng nghe lọt chữ nào, đêm đó tôi say tới mức thế giới bập bùng như một nồi canh sôi. Mấy món mồi vèo một cái hết sạch, anh em vừa ca vừa chén, trông thấy trên tay chủ tướng đang vuốt ve con chim bồ câu trắng muốt, mắt tôi liền sáng lên như thấy kho báu. Tay trái còn đau như có người gõ, nhưng rượu vào là liều ngay, tôi thấy mình oai lắm:
“Thịt bồ câu nướng thì ngon chết được, tui phải bắt cho bằng được he he he!”
Tôi lảo đảo đến gần người nọ, không buồn để ý sắc mặt Nguyễn Chích đã đen kịt như mây giông chập tối, vương tay định chộp lấy con bồ câu đang rúc trong lòng, như thể nó đã sẵn là món nướng thơm phức đặt trước mặt mình. Diêu văng một câu Diễn Châu oang oang:
“Cha cha, mi gan to rứa hả mà đi cướp chim người ta?!”
Chủ tướng hình như lúc ấy cũng bất đắc dĩ, bảo “Không được” rồi quay đi chỗ khác như muốn tránh cánh tay đang mon men của tôi. Tôi men lưng, mắt mờ, vẫn bướng bỉnh:
“Cho ta xin hai con, nướng rồi chia, chủ tướng cũng ăn chớ?” Hắn chỉ lặng không nói, cái nhìn nghiêm mà lại có gì đó… không chịu nổi, làm tôi đỏ mặt mơ màng.
Chợt chủ tướng cất giọng gằn, như để cắt ngang trò say sưa của tôi:
“Đây là Tuyết Hoa, chẳng phải đồ nhắm của ngươi đâu!”
Men cay dậy lên, đầu óc hóa mơ màng, tôi vụt chộp lấy con bồ câu trắng. Con chim giật mình, vỗ cánh điên cuồng, vòng người tôi một vòng rồi bay vèo ra giữa ánh lửa. Tôi thét lên một tiếng sung sướng, lao theo bắt nó, mà chân trơn, đất lún, thế là mất thăng bằng. Chưa kịp ôm con chim vào lòng, tôi trượt ngã một cái mạnh, lăn bổ vào đống rơm khô bên bếp; rơm bụi bay mù mịt, mùi khói, mùi rượu và Tiếng hò reo, tiếng cười rộ của anh em dội ùa vào tai, rồi tất cả bỗng xoáy lại, mờ dần, trôi tuột đi…
Sau đó tôi không còn nhớ gì nữa.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, đầu đau như búa bổ. Cái lưng ê ẩm, miệng còn ngai ngái mùi rượu. Nhìn quanh, thấy mình nằm trong lều quen thuộc, chăn được ai đó phủ ngay ngắn.
Chưa kịp ngồi dậy, Nhuế đã chạy xộc vào, mặt tươi rói như được mùa, giọng Bắc ríu rít:
“Anh Sa, biết đêm qua anh làm gì không? Cha chả, em nhìn mà tim muốn rớt ra ngoài. Anh say rượu, bắt con Tuyết Hoa của chủ tướng đòi làm đồ nhắm rượu, nhảy múa loạn cả lên, rồi còn dúi cả bát rượu vô mặt… chủ tướng! Bắt ngài uống, mà ngài cứ ho sặc ọc ọc. Cả trại cười nghiêng ngả!”
Tôi nghe xong, người như bị dội gáo nước lạnh, mặt đỏ bừng đến tận tai. Trong đầu lập tức hiện lại cảnh mờ mờ: tiếng sáo, tiếng trống, vòng lửa rừng, tôi cười hô hố, cầm chén rượu dí ngang mặt ai đó… thì ra là Nguyễn Chích thật!
Tim đập thình thịch, tôi bật dậy, giơ tay đánh thùm thụp lên vai Nhuế, miệng quát át cả tiếng chim sáng:
“Đồ trời đánh! Sao cậu không lôi tôi về, còn đứng đó mà nhìn? Còn cái mồm nữa, ai bảo đi kể lắm thế hử?”
“Ơ… em…lúc ấy em có cản anh mà em cũng…say sỉn… hệt anh luôn nên là…em…em…” Nhuế lí nhí, vừa né vừa lùi.
Chưa kịp hết câu, tôi cầm chiếc dép, xắn tay áo lên.
“ Để mất mặt trước cả chủ tướng, còn ra thể thống gì nữa!”
Tôi cứ thế dí sát, mắng miết, tay còn quơ quào như muốn phang thêm. Nhuế cuống cuồng, vừa lùi vừa che đầu, chẳng để ý phía sau có cây gạo già, thế là rầm, hắn đập đầu vô thân cây, kêu “ối giời ơi” một tiếng rõ to rồi ngồi bệt xuống đất, mặt mũi nhăn như khỉ.
Anh em trong trại bật cười rộ, còn Diêu ở bên kia hô lên giọng Diễn Châu, vừa cười vừa vỗ đùi:
“Cha cha, mi coi răng! Đêm qua dí rượu cho chủ tướng, sáng ra lại dí thằng em út vô gốc gạo. Hầy, coi bộ anh em tình thâm thía hè!”
Tiếng cười rộ khắp trại, tôi càng đỏ mặt hơn, bèn quay ngoắt đi, cho khỏi để ai thấy cái vẻ ngượng ngập của mình.
Đang giả bộ lúi húi tìm gì đó trong tay áo, bỗng nghe phía sau Nhuế hét lên một tiếng chói tai:
“Á! Ong! Ong chích em rồi, anh Sa ơi cứu em!”
Quay lại nhìn, tôi bật cười không kìm được. Thằng nhóc đang ôm mặt nhảy dựng lên như con chim bị thương, trên trán và má nổi lên mấy vết đỏ hồn, trông thảm hại mà cũng buồn cười khôn xiết. Nó giận dỗi, mắt nhìn tôi đầy oán trách, rồi bất ngờ xông tới rượt bắt tôi để trả thù.
Có người anh em nào đó còn châm chọc:
“Chẳng nhìn cây gạo làm chi,
Đâm đầu một cái, ong ri bâu đầy!”
Tôi nhanh chân chạy trốn, vừa chạy vừa ngoái lại cười nó. Nào ngờ Nhuế mải đuổi theo mà chẳng thèm nhìn xuống đất, bỗng “ầm” một tiếng, hắn dẫm phải một vật gì mềm mềm nằm lẫn vào trong đám cỏ cao.
“a…a…”
Một tiếng rên yếu ớt, thảm thiết vang lên rồi tắt lịm. Cả tôi và Nhuế đều giật mình, dừng ngay trò đuổi bắt. Vén cỏ lên, một người đàn ông lạ mặt quần áo rách tả rách tơi, người đầy bụi đất, đã nằm bất tỉnh ở đó, trên người còn hằn nguyên một vết chân của Nhuế.
…
Trước lều chủ tướng, tôi lễ phép cúi đầu.
“Chủ tướng…tôi…tôi xin lỗi…đêm qua…”Giọng tôi nhỏ như muỗi kêu, mặt nóng ran.
Nguyễn Chích chẳng ngẩng đầu, vẫn chăm chú mài nhẹ lưỡi dao găm trên tay, ánh thép lạnh dưới nắng sớm lóe lên từng hồi. Một lúc sau mới khẽ “ừm”một tiếng rồi ngắm nghía lưỡi dao rồi cất đi.
“Người đó thế nào rồi?" Giọng hắn bình thản, dứt khoát chuyển đề tài, khiến tôi thở phào nhẹ nhõm.
"Dạ, vẫn còn bất tỉnh. Xem ra kiệt sức và đói lắm rồi."
"Đi xem nào."
Chúng tôi bước vào lều. Người đàn ông lạ vẫn nằm im, thở đều đều. Nhuế ngồi bên cạnh, khuôn mặt sưng vù vì ong chích, mắt nhìn tôi đầy vẻ dỗi hờn. Tôi cười hì hì, cúi xuống gần nó thì thầm:
"Thôi mà, đừng giận nữa. Tí nữa ăn cơm, phần tráng miệng của tôi nhường cho cậu."
Nhuế mắt chợt sáng lên, gật đầu lia lịa, thế là hết dỗi ngay.
Nguyễn Chích quay lại, nói với cả hai: "Hai người không cần ngồi đây canh nữa. Ra ngoài làm việc của mình đi. Có người khác sẽ tới thay."
Ông dừng lại, nhìn khuôn mặt sưng húp của Nhuế, khóe miệng hơi nhếch lên một nụ cười rất khẽ: "Và đi tìm chút lá thuốc đắp vào đi."
…
Tầm hai hôm sau, vào một buổi chiều chủ tướng chúng tôi đón một vị khách, người này tôi đã từng gặp qua. Hồi mấy tháng trước tôi còn đang trên đường đến căn cứ Hoàng Nghiêu, giữa trưa nghỉ chân dưới gốc cây mát rượi ở Cầu Quan. Lúc đó anh ta đang cấy mạ cùng vợ, và Đa Cấu đến tìm. Tôi còn nhớ như in câu ca dao mà đứa con anh ấy hát ca giữa cánh đồng hôm ấy.
Cầu Quan vui lắm ai ơi
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng.
Tôi lúc ấy đang ngồi bàn chuyện về binh khí với chủ tướng thì Đa Cấu bước vào theo sau đó là người nông dân ấy chắp tay:
“Chủ tướng, anh Cảnh Tư có việc cần bẩm với ngài”
Anh Cảnh Tư ấy áo bạc phếch bùn, bước nhanh đến gương mặt có phần tiều tụy.
Mọi người im bặt, ánh mắt hướng về ông. Tư cúi đầu, giọng thô nhưng rõ:
“Thưa chủ tướng, có vài điều ta thưa thật, xin được nói gọn.”
Chủ tướng gật đầu, giọng lạnh nhưng nghe có phần nặng lòng:
“Anh cứ nói đi.”
Tư rút mảnh vải ra, trải lên tay, chỉ bằng ngón tay chai sạn:
“Đêm trước Hóa Châu thất thủ[1], có người đưa thư ra đường, hỏi thăm chốn đóng quân, chỗ kho lương. Ta lén theo dõi. Có thấy Phan Liêu đi trao một cái phong thư cho lính Minh. Trong phong thư ghi: "kho lương đặt dưới gò đất ven sông, lực lượng canh giữ gồm ba cánh, tổng khoảng hai ngàn người như ghi." Sau đó quân Minh biết rõ đường vào, tối đến chặn đường tiếp tế, đánh úp. Hóa Châu tan là vậy, Quý Khoách Đế, Nguyễn Súy cùng với anh của tôi chẳng rõ sống chết thế nào.”
Chú thích:
[1] Hóa Châu thất thủ năm 1413 đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của nhà Hậu Trần sau khi quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ bao vây và chiếm được Hóa Châu, cố đô cuối cùng của nhà Hậu Trần. Thất bại này dẫn đến việc vua tôi nhà Hậu Trần tan tác và kết thúc kháng chiến, sau khi các tướng lĩnh như Đặng Dung và Nguyễn Súy không chống nổi quân Minh.
[2] Tháng sáu năm Quý Tỵ (1413), Quân Trương Phụ vào Nghệ An, quan thái phó nhà Hậu Trần là quan Thái phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng, nhưng được mấy hôm thì mất, Trương Phụ cho con Quý Hữu là Phan Liêu làm Tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công nên khai hết thông tin quan trọng của quân nhà Hậu Trần cho Trương Phụ biết hết. (nguồn: Việt Sử Lược)



Bình luận
Chưa có bình luận