Hè.
Dưới cái nắng tháng Năm như đổ lửa, cả ngôi làng nhỏ chìm trong không khí oi ả. Mặt trời đứng bóng, ánh nắng chói chang rải xuống những cánh đồng lúa đang thì con gái, uốn mình trong làn gió hè, tạo nên những đợt sóng lăn tăn như thì thầm than thở. Tiếng ve râm ran trong những tán cây cổ thụ, hòa cùng tiếng cười đùa của lũ trẻ trong xóm. Không khí như đặc quánh lại, mọi thứ chậm rãi, lặng im dưới cái nắng rực rỡ.
Chiếc xe ngựa cũ kĩ lọc cọc trên con đường làng gồ ghề, mỗi lần xóc nảy khiến tôi ngồi trong xe càng thêm khó chịu. Tôi nhoài người ra cửa sổ, ánh nắng xuyên qua kẽ lá, nhảy nhót trên mặt đất. Lòng tôi bỗng dâng lên nỗi chán nản mơ hồ, tựa như điệp khúc nhàm chán của những chú ve sầu ẩn mình trong tán lá. Chẳng biết đến bao giờ chúng mới thôi kêu.
Bởi từ giờ, tôi sẽ phải sống cùng bà ngoại, và chẳng rõ khi nào mới được trở về nhà. Bất chợt, tiếng cười đùa ríu rít phía trước kéo tôi ra khỏi dòng suy nghĩ miên man. Đám trẻ trong làng đang tụm năm tụm ba chơi ô ăn quan. Tôi dán mắt vào chúng, bởi tôi vốn rất thích trò này. Ở nhà, tôi hay bắt chị Liễu, con Chanh, thằng Quýt chơi cùng. Con Chanh tuy là người ở, nhưng chơi rất khôn, lần nào cũng thắng. Chắc bởi nó lớn tuổi hơn, đương nhiên phải giỏi hơn.
Xe ngựa đi thêm một đoạn nữa thì tới nhà bà. Ngôi nhà vách đất nép mình dưới mái ngói phủ rêu phong, nhỏ bé nhưng xung quanh là cả một khu vườn cây trái sum suê. Tôi hít một hơi thật sâu, mùi đất ẩm sau cơn mưa hè đêm qua, mùi cỏ non thoảng nhẹ khiến lòng tôi bỗng bình yên lạ.
Thực ra, từ nhỏ tới giờ, tôi chỉ gặp bà vài ba lần. Lần này đột ngột tới sống cùng, mọi thứ đều xa lạ, kể cả mùi hương cũ kĩ phảng phất trên áo bà.
Vừa bước xuống xe, tôi đã thấy bà ngồi chờ trên chiếc chõng tre trước cửa. Thấy tôi, bà mỉm cười hiền từ, đón lấy mấy cái tay nải.
“Bành đến rồi à con.”
Tôi ngượng nghịu, tay tự cấu nhẹ vào nhau, mắt dán xuống đất. Thấy tôi im lặng, bà chỉ cười: “Mau vào nhà đi, bà rửa mặt rửa chân rồi dọn cơm trưa.”
Tôi lí nhí “dạ”, sợ bà không nghe thấy nên lại “dạ” thêm lần nữa.
Bữa cơm ở nhà bà đạm bạc: cà pháo, canh chua, cá kho. Nhưng món cá bà kho ngon lạ, tôi thấy còn ngon hơn cả cá kho con Chanh nấu. Tôi ăn một lúc hết ba bát cơm, còn vét sạch nồi. No căng bụng, tôi nằm vật ra chõng tre ngủ tới xế chiều.
Bà chẳng nói gì, chỉ lấy gối kê đầu cho tôi, rồi đi ra vườn sau.
Tôi ngủ một mạch tới lúc trời đã xế bóng. Ở nhà, mẹ hay bắt tôi ngủ trưa, nhưng tôi rất ghét, thường trốn đi chơi với con Chanh, thằng Quýt. Mỗi lần về là bị đòn nát đít. Vài bận sau, mẹ dọa nếu còn trốn sẽ đuổi hai đứa kia về quê, nên tôi đành chịu.
Giờ chẳng ai bắt ngủ, nhưng nằm trên chõng tre, gió hè mát rượi thổi qua, cây cối rậm rạp quanh nhà, tôi không sao cưỡng lại cơn buồn ngủ.
Tỉnh dậy, tôi chạy ra vườn tìm bà nhưng không thấy đâu. Loay hoay mãi, tôi lạc vào một nơi xa lạ. Phía trước là rừng rậm, phía sau là đồng ruộng mênh mông, xa xa lác đác vài nóc nhà. Hoảng hốt, tôi chạy dọc theo bờ ruộng, hy vọng tìm được lối về.
Bỗng nghe tiếng cười đùa, tôi men theo thì thấy một đám trẻ con. Lại gần, tôi nhận ra đám trẻ trưa nay, chúng đang vây quanh một thằng bé gầy gò, mặt mày lấm lem, ngồi co ro dưới đất. Không phải tiếng cười vui vẻ, mà là sự chế nhạo, giễu cợt. Một đứa còn hất thằng bé ngã xuống, nhưng nó chẳng phản ứng gì.
Dù không quen, lòng tôi bỗng trào lên sự bức bối. Tôi nhặt mấy cục đá, ném lia lịa vào lũ trẻ.
Bọn chúng đau điếng, quay lại gầm gừ. Thấy tôi chỉ là một đứa con gái nhỏ con, chúng càng hùng hổ.
“Chuyện của mày à mà mày xen vào?”
Tôi câng câng mặt lên đáp.
“Ừ, tao thích, tụi mày ỷ đông hiếp yếu, chẳng đáng nam nhi. Hèn!”
Bị chửi là hèn, tụi nó càng tức, định xông lên đánh tôi, nhưng một trong số bọn chúng lại lên giọng giễu cợt.
“Thế mày thích thằng không có cha mẹ như nó à?”
“Nó” hình như là đứa đang ngồi xổm chỗ kia, tôi chưa kịp chửi lại thì bọn nó lại ồ lên thích thú, reo lên.
“Con bé mê một thằng gầy”
“Xương sườn đếm được từng cây rõ ràng.”
“Người ta cười vỡ cả môi”
“Nó còn thủ thỉ: “Ấy ơi, duyên mình!”
Đứa này nói một câu, đứa kia đáp lại một câu, cả đám ôm bụng cười sặc sụa. Riêng tôi nóng mặt, đá vào háng thằng mập nhất. Nó ôm đau gào khóc, lũ kia khiêng nó bỏ chạy.
“Mày được lắm con ranh, đợi tao về mách mẹ, để xem mày còn sống được hay không!”
Nó gào lên, tôi chẳng sợ, mặc bọn chúng khiêng thằng mập đó chạy biến đi.
Khiếp, đá nhẹ có tí mà yếu ớt thế, chẳng thèm quan tâm tụi nó nữa, tôi chạy đến chỗ tên kia, nãy giờ cứ ngồi ở dưới đất, chẳng biết nãy giờ có đoái hoài đến tôi hay không. Nó vẫn cứ biểu cảm như nãy, là chẳng có biểu cảm gì, cứ nhìn xuống đất, chẳng nói chẳng rằng.
“Này, ngươi tên gì?”
Đáp lại tôi là tiếng lặng thinh.
Chà, chảnh chọe thế không biết.
“Chảnh thế! không thèm cảm ơn ta luôn à.”
Nó vẫn yên như tượng, chẳng nhúc nhích. Tức quá, ta cũng định xô nó xuống đất, nào ngờ vừa mới chạm vào thì lại bị hất tay ra.
“Này tên kia, hỏi thì không đáp, chạm vào thì hất ra, sao ban nãy bọn nó đánh ngươi không đỡ đi? Bày đặt cái gì?”
Tôi uất ức hất lại nó vừa mắng. Nào ngờ nó chỉ đáp hai chữ.
“Kệ tôi.”
Quê quá, vừa quê vừa bực, tôi gắt gỏng.
“Kệ thì kệ, đúng là ăn cháo đá bát.”
“Đừng xen vào chuyện của tôi!” Nó nạt làm tôi giật cả mình, chẳng hiểu đã chạm trúng lòng tự tôn gì của nó mà lạ phản ứng dữ đến vậy.
Tôi chẳng buồn quan tâm nó nữa, quay đầu đi ra chỗ khác. Người gì mà cộc cằn khó chịu.
Thế nhưng tôi quên mất là tôi bị lạc đường, chẳng biết về hướng nào. Đành ngồi lại đó đợi bà.
Cứ nghĩ tôi cứ ngồi lì đó, tên kia sẽ thấy phiền mà tự bỏ đi. Nhưng đã hoàng hôn, mặt trời sắp lặn, nhưng nó vẫn chưa đi, cũng chẳng thấy ai tìm tôi. Chẳng biết bà có lo lắng cho tôi không nữa, chẳng biết về nhà có bị ăn đòn hay không.
Sợ không về được tới nhà, lại càng sợ bị nát mông vì ham chơi quên về.
Tên kia trông có vẻ là dân xứ này, nếu hỏi đường nó thì mất mặt quá, mà chắc gì hỏi nó thèm đáp, nên thà bị "mất mông" còn hơn bị mất mặt.
Bây giờ, tôi chỉ biết chơi thế hèn, chừng nào nó đứng dậy thì tôi cũng đứng dậy theo nó.
Công nhận tên này dai thật, ngồi im từ nãy tới giờ cũng chẳng hề hấn gì, như kiểu ngồi thiền vậy, phải tầm một lúc sau đó nó mới lên tiếng.
“Sao còn chưa đi nữa?”
Giọng không còn gắt như ban nãy nhưng vẫn tỏ ra khó chịu, mà câu hỏi này lại khiến tôi có hơi xấu hổ.
Tôi cúi gầm mặt xuống đất, lí nhí đáp.
“Lạc đường.”
Không biết nó có nghe không, mà chẳng thấy đáp lại. Những tưởng sẽ được chỉ đường, ai ngờ chỉ là câu hỏi vu vơ thôi. Nào ngờ lúc sau lại lên tiếng.
“Nhà ở đâu?”
Um… câu hỏi này khó này, tính ra hôm nay tôi mới đến đấy sống, từ nhỏ đến giờ mấy khi được tới nhà bà đâu, nên hỏi vậy tôi cũng chịu.
Dưới ánh mắt của nó, tôi chỉ đành lắp bắp.
“Nhà bà của ta là cái nhà có mái ngói nhỏ nhỏ, trước nhà có cây cau với cái chõng tre, sau nhà có cây khế, cây na á…Ngươi có biết không?”
“...”
Tự nhiên nói xong câu đó tôi thấy mặt nó ngắn tũn, chẳng biết biểu cảm của nó là ý gì nên chỉ đành thin thít chờ nó lên tiếng.
“Thế bà tên gì?”
“Tên Dậu.” Tôi đáp ngay.
“Có phải là bà Tư Dậu không?”
“À à, đúng, hình như mấy bác hay gọi bà tôi là bà Tư.”
Chả rõ nó đang nghĩ gì trong đầu, mà chẳng giải thích gì, chỉ ra lệnh tôi đi theo.
…
“Bà ơi, con về rồi!”
Về tới nhà, tôi chạy ùa xuống bếp. Bà đang nấu cơm, quay lại cười: “Đi đâu giờ này mới về? Bà định đi tìm đấy.”
“Con lạc đường, may có người dẫn về.”
“Ai thế?”
Tôi chạy ra sân, nhưng không thấy ai. Thất vọng, tôi quay vào: “Nó gầy gầy, cao như chị Liễu ấy.”
Bà cười: “Chắc con nhà ai quanh đây. Thôi, khi nào gặp sẽ hay. Giờ đi tắm đi, kẻo muộn.”
…
Mấy hôm sau, tôi dần quen nếp sống với bà. Sáng nào bà cũng dậy sớm, tôi bắt chước theo. Bà bảo tôi ngủ thêm, nhưng tôi cứ nằng nặc dậy.
Hôm ấy, bà dắt tôi đi chợ. Chợ phiên đông đúc, náo nhiệt. Bà mua cho tôi hai bịch hạt dẻ rang và trái cây khô. Đang mải nhìn ngắm, tôi chợt thấy một bóng hình quen thuộc – thằng bé ngày hôm trước, đang ngồi bán củi và nấm rừng ở một góc chợ.
Nó ngồi lủi thủi, lặng lẽ giữa dòng người tấp nập. Ánh mắt nó vô hồn, như đã quen với sự cô độc. Thỉnh thoảng có người ghé mua, rồi lại vội vã đi.
Bỗng bà nắm tay tôi, dắt tới chỗ nó. Bà mua hết số củi, rồi đưa cho nó một quan tiền. Trong mắt nó loé lên tia vui mừng thoáng qua, rồi nhanh chóng tắt lịm.
“Con cảm ơn bà ạ.” Nó nói, rồi đưa giỏ nấm cho bà, dáng lúng túng, ngượng nghịu.
Bà nhận lấy, mỉm cười.
Nó vội vã chào rồi biến mất trong dòng người, chẳng kịp để tôi nói lời cảm ơn.
Từ đó, thỉnh thoảng tôi lại thấy nó trong những lần theo bà đi chợ, hay lang thang quanh làng. Nó vẫn lầm lì, ít nói, nhưng đôi khi ánh mắt nó dừng lại trên tôi một chút, rồi vội quay đi.
Tôi không ngờ, sự xuất hiện của nó lại khiến những ngày sống với bà bớt tẻ nhạt. Nó như một mảnh ghép kỳ lạ, âm thầm lẫn vào khung cảnh thôn quê bình dị, và in sâu vào ký ức tôi, cho tới tận bây giờ…



Bình luận
Chưa có bình luận