Lúa Vàng Trổ Bông





Ngay hai hôm sau, khi buổi sớm còn bảng lảng sương trên mặt ruộng, tôi đã khăn gói đến Hoàng Nghiêu xin gia nhập vào đội quân. Mẹ đứng nơi hiên, tay vẫn giữ chiếc khăn vá dở, mắt dõi theo tôi như dõi theo một vì sao sắp lìa khỏi mái nhà tranh. Mẹ không nói gì khi tôi thưa chuyện, chỉ khẽ thở dài, gương mặt vốn hiền hòa bỗng nhăn lại như ruộng cày đầu vụ.

“Bành à...con gái đi vào chốn binh đao làm gì?”
Giọng mẹ trầm, run mà cố nén. “Đời loạn lạc thế này, mẹ chỉ mong các con còn được mạnh khỏe. Cực khổ đã là chuyện thường, chỉ sợ… chẳng toàn mạng mà về.”

Tôi biết bà nói đúng. Tôi cũng sợ. Nhưng nhìn cảnh giặc Minh giày xéo khắp nơi, dân tình đói khổ, lửa cháy lan khắp xóm này sang xóm khác… tim tôi cứ như có ai bóp nghẹt. Tôi không thể ngồi yên dệt vải, không thể giả mù giả điếc trước cảnh máu của người Đại Việt đổ xuống từng ngày.

Mất cả một ngày trời, tôi quỳ trước mẹ, thưa từng tiếng khẩn thiết. Mẹ hết quay mặt ra sân lại quay vào bàn thờ cha, mắt đỏ hoe, tay chắp vào nhau không biết bao lần. Đến khi mặt trời lặn xuống bờ tre, cuối cùng mẹ mới chịu gật đầu, dù đôi vai run lên từng chặp.

Sáng hôm sau, lúc tôi buộc xong thắt lưng, mẹ rón rén vào buồng lấy ra một gói bánh còn ấm, dúi mạnh vào tay tôi:

“Đi đường nhớ ăn cho đỡ đói… Đừng bỏ bữa kẻo gió lùa vào bụng.”
Câu nói tưởng như đơn giản, mà tôi nghe sao cay xót tận ruột.

Tôi nắm lấy tay mẹ, bàn tay chai sần vì bao năm cuốc đất, dệt vải. Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt vừa lo lắng, vừa dặn dò, lại vừa như muốn níu tôi ở lại. Tôi cúi đầu đáp lời, cố nặn ra một nụ cười:

“Con hứa… con sẽ sớm trở về.”

Nói rồi tôi dứt áo ra đi. Không dám quay lại nữa, sợ chỉ cần nhìn mẹ một lần, đôi chân sẽ chẳng bước nổi khỏi cổng. Nhưng tôi biết, sau lưng mình, mẹ vẫn đứng đó, tay ghì chiếc khăn vá dở, nhìn theo bóng tôi cho đến khi tôi bị sương sớm nuốt mất giữa con đường làng.

Nghĩ tới chuyện ra trận, lòng tôi lại cuộn lên trăm mối. Thân con gái như tôi… làm sao đường hoàng bước vào nơi binh đao toàn mùi gươm giáo? Trời sinh tôi vóc dáng nhỏ thó, vai gầy như cọng sậy, gió mạnh một chút còn run, nói chi đến chuyện cầm đao đánh giặc. Nếu cứ nguyên hình mà đến, e rằng chưa kịp nói hết câu đã bị mấy ông lính canh quát cho quay đầu về xóm.

Huống hồ, trong doanh trại Hoàng Nghiêu, từ tướng đến lính gác cổng, chỗ nào chẳng toàn là đấng mày râu. Người ta ở giữa thời chiến, việc gì cũng gấp rút, đã chẳng có chỗ cho sự yếu mềm, lại càng không có chỗ để một cô gái chen vào. Sự có mặt của tôi, nói thẳng, chỉ là điều bất tiện.

Nghĩ tới nghĩ lui, chỉ có cách giả trai mới mong lọt qua được cổng trại. May mà lúc nhỏ tôi vốn chạy nhảy với mấy đứa con trai trong xóm, giọng nói lại không quá the thé, dáng đi cũng không đến mức yểu điệu như các cô trong làng. Chỉ cần buộc tóc gọn sát gáy, khoác chiếc áo nâu rộng, rồi bôi lên mặt ít tro bếp… nhìn qua cũng tạm thành một đứa trai làng gầy gò.

Tôi đứng trước gương nước bên bờ ruộng, soi bóng mình trong làn nước đục. Một cô gái nhỏ bé biến thành “chàng trai” xanh xao chỉ trong chốc lát. Thấy vậy, tim vừa thắt lại, vừa như được tiếp thêm can đảm.

Tôi tự nhủ, cũng chỉ có cách này.

Giả trai mà đi đánh giặc… âu cũng là trái tim không muốn đứng ngoài vận nước.

Theo như những lời ngoài hàng nước hôm nọ, thì phải mất gần một ngày để đi đến căn cứ của Nguyễn Chích. Nghe đâu đó là một nơi hiểm trở, đi lại khó khăn, đã vài lần tên tướng giặc Trương Phụ[1] có qua đàn áp nghĩa quân nhưng đều thất bại, một phần cũng vì địa hình trắc trở như Hoàng Nghiêu.

Vì vậy tôi mới lóe lên ý nghĩ xin gia nhập nghĩa quân.

Đó là một buổi sớm đầu tháng Sáu, tiết trời oi ả như nén trong lòng bàn tay ai đó mà không chịu buông ra. Vừa hừng đông, không khí còn đặc quánh, im bặt như thể cả thôn xóm vẫn còn nín thở. Bầu trời phía trên đầu đen thẫm, mảng đêm chưa tan, chỉ rải rác vài ánh sao bạc mờ nhạt, lấp lánh như những giọt lệ còn vướng lại trên vạt áo trời.

Mạn Đông bắt đầu nhô lên một vệt sáng mỏng, yếu ớt như hơi thở người mới ốm dậy. Mặt Trời chưa ló hẳn mà chỉ lấp ló sau những cụm mây xám tro, để những tia sáng đầu tiên rơi xuống mặt đất lạnh lẽo. Cái lạnh ấy không phải của gió, mà của sự tĩnh mịch kéo dài suốt đêm, còn chưa kịp tan.

Tiếng gà trống bỗng vẳng lên từ cuối xóm, khàn mà gấp, như đánh thức cả làng sau một đêm dài. Tôi cũng theo đó mà cựa mình, khoác tay nải lên vai. Dây quai còn in dấu tay mẹ thắt lại tối qua, nhắc tôi nhớ mình sắp rời cái mái nhà này để đi về nơi chẳng biết sống chết ra sao.

Con đường làng trước mặt vẫn còn chìm trong màu than mờ, nhưng tôi đã quen lối. Những hàng cây ven đường đứng sừng sững, thân im phăng phắc như những người lính canh lặng lẽ. Dù ánh sáng đầu ngày đã chạm vào từng cành lá, chúng vẫn không hề động đậy, cứ thế mà trầm ngâm nhìn tôi bước qua, như nhìn một đứa trẻ sắp rời vòng tay gia đình.

Chỉ có rặng tre già đầu xóm là không giấu nổi sự sống của mình. Từng thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt, nghe như tiếng kêu rùng mình giữa khoảng không im ắng. Tiếng động ấy nhỏ thôi, nhưng đủ để len vào lòng người, khơi dậy một thoáng sợ hãi mơ hồ cái sợ của kẻ sắp rời nơi quen thân mà bước vào cõi rộng lớn với bao điều không đoán trước.

Tôi siết chặt tay nải hơn một chút, tự trấn an mình, rồi bước tiếp. Con đường dẫn ra Hoàng Nghiêu còn dài, mà lòng tôi thì chưa thôi thắt lại.

Từ chỗ tôi, tức là vùng Vạn Lộc, đến căn cứ của chủ tướng Nguyễn Chích chừng chưa đến một ngày đường. Nghe nói, nếu đi ngựa thì chỉ tầm nửa buổi là tới, còn đi bộ thì cũng kịp trước khi trời sẩm tối. Tôi chưa đặt chân đến đó bao giờ, chỉ nghe người ta kể rằng trại của ngài nằm sâu trong rừng Hoàng Nghiêu, bốn bề núi non hiểm trở, đường đi quanh co khó dò. Nghĩ đến đoạn đường dài, tôi quyết định trước hết men theo lối ra Cầu Quan, nơi có chợ và quán nước đầu làng, để nghỉ chân đôi lát, vừa hỏi thăm đường, vừa đợi nắng đứng bóng bớt gắt rồi mới tiếp tục đi.

Đến cuối giờ Tỵ, tôi mới đặt chân tới ngã ba Cầu Quan.

Nơi đây thoạt nhìn có vẻ vẫn còn như hồi tôi đến cùng chị tôi những năm trước, mặc dù đâu đó phảng phất những ánh mắt u buồn của người dân, những ánh mắt khao khát sự tự do thái bình thịnh thế. Cảnh vật nơi đây nhuốm một nỗi bi thương không lời. Trong từng ngọn gió phảng phất mùi máu tanh từ những người đã ngã xuống để bảo vệ yên bình, giành lại tự do

Giữa trưa nắng như đổ lửa, tôi men qua những cánh đồng, nơi vẫn còn dăm ba bóng người cặm cụi ngoài ruộng. Lúa đang thì trổ bông, bông nặng trĩu, cúi rạp xuống đất như cũng mệt mỏi dưới cái nắng chang chang.

Gió phả từng luồng nóng hầm hập qua những gốc rạ, nhưng người làm ruộng vẫn cắm cúi tay cày tay cuốc, áo vá vai, nón mê rách vành, miệng vẫn hát nhè nhẹ một làn điệu ru con. Dưới gốc tre đầu bờ, có người tranh thủ đun nước bằng bếp đất để pha bát chè xanh đắng dịu, uống giải cơn khát.

Đang thảnh thơi bước men theo bờ ruộng, tôi chợt thấy ở đằng xa thấp thoáng bóng vài đứa trẻ con, chắc là mang cơm từ nhà ra cho thầy u ngoài đồng. Đứa thì ôm cái lồng cơm, đứa xách bát nước, đứa lăng xăng chạy trước, trông cảnh ấy mà lòng tôi dịu lại như được trở về những ngày nào chẳng còn lo nghĩ.

Vừa đi, bọn trẻ vừa líu ríu hát, giọng non nớt mà vang giữa đồng, như lẫn vào mùi lúa đầu mùa:

“Cầu Quan vui lắm ai ơi,
Trên thì chợ họp dưới bơi thuyền rồng…”

Một con bé tóc cột hai búi, da bánh mật, đôi mắt đen như hạt gạo nếp mới xát, bỗng sáng rực lên như nghĩ ra điều chi thú vị. Nó liền nối tiếp, hồn nhiên mà tự tin:

“Nắng vàng óng ả cánh đồng,
Nông dân gặt lúa tay bồng đứa con…”

Thằng bé đi kế bên nghe xong liền khựng lại, mặt nó nhăn như trái cà chưa chín:

“Ủa? Ủa? Chị hai vớ câu này ở đâu ra vậy?”

Con bé chống nạnh, mặt vênh lên như bà cụ non:

“Tao tự nghĩ ra đấy!”

Thằng em trai bĩu môi dài thượt:

“Điêu! Thầy u mình có bế đứa nào đi gặt bao giờ đâu. Chị bịa nghe dở ẹc luôn!”

Nói xong, nó còn khịt mũi khinh bỉ một cái rõ to. Con bé kia đỏ mặt tía tai, không chịu thua, định với tay bốc hòn đá dưới chân. Thằng em cũng thò tay tìm cục đất. Mấy đứa đằng sau thấy vậy thì la chí chóe, chạy tới can, thành ra ồn ào như cái chợ vỡ ngay giữa đồng không mông quạnh.

Tre ven bờ cũng vì trận cãi vã của lũ trẻ mà khẽ rung lên, kẽo kẹt như cười khẩy. Hơi nắng ban sớm nhảy múa trên bụi lúa, còn lũ con nít thì chí chóe như chim chích vừa bị quậy tổ.

Tôi nhìn cảnh ấy mà không nhịn được, khoé môi bất giác cong lên. Giữa thời loạn lạc, thấy bọn nhỏ vẫn hồn nhiên như vậy… tự nhiên trong lòng tôi cũng ấm thêm một chút.


12

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

“Lúa vàng trổ bông, đất Việt phồn thịnh.

máu đỏ thắm đất, thuyền rồng vút bay.”

Một người đàn ông chẳng biết từ đâu ra, đối thêm một câu thơ cắt ngang cuộc cãi vã của mấy đứa nhóc.

  “Bé Vân nay giỏi quá nhỉ, còn biết đối thơ cơ đấy.”

 Người này thoạt nhìn ngăm đen, vóc dáng cao ráo, độ chừng ba mươi. Mấy đứa trẻ đó gặp người đàn ông phấn khởi, đu tót lên cổ chú vui mừng:

   “Ôi chú Cấu, lâu rồi chú mới tới chỗ bọn cháu, cháu nhớ chú lắm!”

   “Nay đem cơm cho thầy u à?”

   Thằng cu nhỏ nhao nhao đáp lại giọng lanh lảnh:

“Vâng ạ, nay đem cơm có cá kho với canh rau tập tàng đó chú! Có cả cà pháo muối u làm nữa!” Cái vẻ ngô nghê thật khiến người ta phải bật cười.

Cơm được đựng trong lồng tre, nắm tròn độn khoai, gói khéo bằng lá chuối xanh. Hơi ấm còn vương, tỏa ra mùi thơm ngai ngái của khoai lẫn gạo, quyện với vị mắm tôm mằn mặn, gợi lên hương ruộng đồng dân dã. Chỉ ngửi thôi mà bụng tôi đã réo lên cồn cào, thèm đến khô cả họng.

Chú Cấu xoa đầu đứa nhỏ, rồi lấy trong tay nải ra gói bánh:
“Chú có mua mấy cái bánh lá dừa đây, bọn cháu tự chia nhau ra mà ăn nhé, chú tìm thầy u các cháu có việc.”

Mấy đứa nhỏ thấy bánh lá dừa là hai mắt y rằng sáng rực lên, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc rồi nhảy xuống để chú Cấu đó đến chỗ của thầy u bọn chúng. 

Mà khung cảnh từ nãy đến giờ, chả hiểu sao tôi lại chăm chú theo dõi như vậy, phải chăng là bởi vì tôi bị lôi cuốn bởi mấy câu thơ của mấy đứa trẻ, hay bị lôi cuốn bởi đám cỏ xanh dịu, êm ái, dưới bóng cây mát rượi. Với thời tiết nắng oi bức của tháng Sáu thì không muốn nằm ngủ cũng khó.

  Hình như là thầy của bọn nhỏ đang ngồi dưới gốc cây cách tôi không xa với một người phụ nữ có vẻ là u của bọn trẻ. Bọn họ như vừa mới ngoài đồng làm việc nghỉ tay một lát. Xung quanh đồng ruộng thênh thang, lác đác vài người hình như đang gieo mạ. 

     Thấy người đàn ông da ngăm đang bước đến, hai vợ chồng nọ liền đứng dậy.

    “Anh Cấu, tình hình thế nào rồi?” Người chồng hỏi người đàn ông da ngăm.

     Nghĩ ngợi một lúc, anh ta mới đáp.

     “Lúc đó không khả quan lắm, tên Phụ đó bất ngờ đánh úp vào căn cứ, cũng may chủ tướng diệu kế, dương Đông kích Tây, khiến bọn chúng không biết căn cứ thật sự của ta, nên mới không bị bọn chúng phá tan.”
[1] Trương Phụ: (1375-1449) Là một tướng lĩnh, đại thần nhà Minh, đã từng xâm lược Đại Việt hai lần 

11

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout