Giữa giờ Ngọ, nắng gắt như đổ lửa, tôi đương thiu thiu trên tảng đá lớn ngay cạnh Hoàng giang. Ánh mặt trời chiếu thẳng xuống khiến người tôi chẳng thể nào chịu được dù đang nằm dưới gốc cây ổi. Cực chẳng đã, tôi bật dậy bước vào lều nhỏ, đành ngủ trưa cùng với mấy tên đàn ông kia.
Vào trong lều, trông thấy Nhuế cùng Diêu đang nằm say giấc trên phiến gỗ được đẽo gọt bằng phẳng mà chúng tôi tạm bợ gọi nó là tấm phản, dù nó không có chân, không nhẵn nhụi bằng chiếc phản bằng gỗ xoan đào của Chủ tướng bọn tôi bên trong hang lớn đằng kia.
Âu cũng là hoàn cảnh… trong thời chiến tranh loạn lạc, đâu đâu chẳng là giặc Minh cuồng bạo, nhiều người đói khổ lầm than thì tiền đâu ra để cho những việc ấy. Có giường nằm còn hơn phải lót lá nằm đất như nhiều binh sĩ khác.
Tôi rón rén tém tém tà áo rồi nằm xuống phản cùng với Diêu và Nhuế đang lăn quay ra ngủ từ nãy. Tên Diêu không biết mắc thứ gì mà cứ hễ nhắm mắt là tiếng ngáy như trời sấm vang khắp lều.
Ta mới gia nhập quân chưa đến mươi ngày nên còn chưa quen với tiếng ngáy khó chịu, đêm nào cũng trằn trọc mất ngủ, nhưng có lẽ Phạm Nhuế cậu ấy ở lâu nên đã quen.
Nhìn gương mặt tuấn tú trắng trẻo của Nhuế nhíu lại do bị tay chân của Diêu co quắp đè chặt lên người, chắc thằng bé đang gặp ác mộng đáng sợ nào đó rồi.
Trong lều này còn thiếu một người nữa đó là Cấu. Không biết trưa nay anh Cấu đi đâu mà không thấy bóng dáng gì cả, có lẽ là đang ở lều lớn bàn chuyện cùng Chủ tướng, bởi chức vụ Cấu hơn hẳn chúng tôi. Võ công cũng giỏi hơn đám lính chúng tôi rất nhiều… trừ Nguyễn Bành Thị Bành[1] ta.
Mặc dù tôi mặc đồ của đàn ông, xin tòng quân đánh giặc như đàn ông, ăn ngủ với đám đàn ông, nhưng tôi chính là một cô gái. Tuy vậy, mà võ thuật của tôi chỉ có hơn, không kém đàn ông. Bởi lẽ từ nhỏ tôi được học võ, học bắn cung cưỡi ngựa.
Tôi là con gái thứ hai của một quan nhỏ dưới thời Hồ, nhưng đất nước bị bọn giặc xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị bắt. Sau khi nhà Hồ sụp đổ, quân Minh giương cao ngọn cờ “phù Trần diệt Hồ”. Nhằm dụ dỗ dân chúng chỉ với một một đích biến Đại Việt thành quận Giao Chỉ của nước Đại Minh. Tuy nhiên, bức màn dối trá “phù Trần diệt Hồ” đó không thể qua mắt được thiên hạ.
Giản Định Đế và Trùng Quan Đế đều là những hậu duệ nhà Trần lần lượt dựng cờ khởi nghĩa, nhưng đều thất bại.
Nhiều cuộc nổi dậy của nông dân cũng từng diễn ra, nhưng đều bị chét thảm hại dưới ngọn giáo của bọn chúng.
Cha tôi cũng đã bị giết. Bị bọn giặc tàn bạo chém thẳng tay trong một lần nổi dậy cùng nhiều người nông dân khác chống quân giặc.
Mẹ tôi được trời thương may mắn thoát được bọn giặc đó. Nhưng nỗi đau đớn không thể nào nguôi ngoai khi chứng kiến chồng mình bị chém.
Chị gái tên Thị Liễu, do lọt vào mắt xanh của con ông địa chủ sống ở làng bên nên lấy chồng từ năm mười bảy tuổi. Lấy nhau được ba năm mới có mụn con, thì cả huyện ấy bị chiếm đóng, anh Quý cũng bị bọn chúng bắt đi làm nô bộc, đến nay con chị Liễu được năm tuổi rồi vẫn chưa thấy tin tức gì về chồng.
Nhiều lúc chị bồng thằng cu đứng ngoài ngõ trông ngóng chồng về, thấy mà chạnh lòng, mà thương chị Liễu vô cùng.
Những năm nay, gió vẫn thổi mùi máu tanh còn vương trên mảnh đất Đại Việt.
Hận không thể đem đám giặc đó phanh thây trăm mảnh.
Chúng nó sẽ phải trả giá cho những thứ mà chúng đã gây ra cho con dân Đại Việt.
Tự do, phải do chính tay mình giành lấy.
Ta quyết xin tòng quân đánh giặc. Nhưng là con gái, tuy học võ, vẻ ngoài của ta người ta thường lầm tưởng là “liễu yếu đào tơ”. E rằng sẽ không có lấy một ai muốn chấp nhận ta để ra trận mất.
Nghe đâu cách đây chừng gần hai mươi dặm, có một căn cứ vừa khởi nghĩa cách đây không lâu, nhớ không lầm chính là căn cứ Hoàng Nghiêu. Tôi nghe lỏm được từ mấy bô lão bàn tán ngoài hàng nước, chủ tướng đó tên Nguyễn Chích, có tài thao lược đang chiêu mộ nghĩa binh ngay căn cứ. Cứ đi đến Cầu Quan, thêm nửa canh giờ nữa, hướng về phía Bắc là đến.
Cầu Quan, thực là chốn non nước hữu tình, kẻ chợ tấp nập, thuyền buôn tụ hội đông đúc, ngày đêm chẳng vắng bóng người.
Thuở trước tôi cùng chị Liễu từng ghé chơi mấy ngày, nhờ vậy mà gặp được anh Thành — nay là chồng chị. Nhưng đó đều là chuyện năm xưa, hồi nhà tôi còn đủ đầy, ấm êm.
Trong lúc đăm chiêu, tôi vô thức trả tiền nước rồi ra khỏi quán lúc nào chẳng hay, bỗng có bàn tay ai đó giật ngược tôi lại làm tôi sảng hồn.
“Cô Bành, sao cô đi ngay giữa đường, bọn quân Minh đang đi tuần tra, cô muốn bị nó gi.ết hả?”
Hóa ra là thằng Lộc, chúng tôi quen nhau từ thời trẻ trâu, hồi mà chúng tôi chỉ mới ba bốn tuổi. Đã mấy tháng tôi mới gặp lại Lộc, ban đầu có chút vui mừng, nhưng lời hỏi thăm chưa kịp thốt ra thì phía đằng xa lại có tiếng gì đó như đổ ầm ầm xuống đất. Cả tôi và Lộc đều giật nảy mình, tò mò chạy lại xem xem chuyện gì đã xảy ra.
“Tên ăn mày này, mày dám cản đường ông!?”
Một tên lính của nhà Minh đường ngồi trên lưng ngựa, tay cầm mũi giáo chỉa thẳng người đàn ông trước mặt mà tru tréo, keo theo đó làm một đám lính phục tùng cũng đồng loạt chĩa mũi giáo nhọn hoắt về một phía đó. Còn người đàn ông nhìn khá quen mắt, hình như là võ quan mà tôi đã từng gặp trong lúc tôi đi đâu đó cùng cha tôi. Nhưng sao chú đó lại ra nông nổi này, một người từng là quan võ uy nghiêm, mà giờ lại như kẻ ăn mày đầu đường xó chợ. Khác hẳn với trước kia, ngay cả.. tâm lý cũng vậy, cứ như kẻ điên!
Tôi thấy ông ấy đang dang hai tay chắn đường ngựa đi của bọn quan Minh, mặt mũi lem luốc, nhưng ánh nắng lại long sòng sọc lên trừng với bọn chúng.
“Một lũ mọi rợ! quân khốn kiếp! chúng bay sẽ bị quả báo!”
Chú hét lớn, đến nỗi khiếp cho lũ người đang ngồi chễm chệ trên lưng ngựa kia huống hồ chi là mọi người xung quanh hóng chuyện.
Trong phút chốc, một mũi giáo nhọn phi thẳng xuống, đâm xuyên qua người đàn ông đó. Những người xung quanh hét toáng lên, hoảng loạn ôm đầu chạy. Tên cầm đầu đám quân đó lập tức thét lớn, buông những lời lẽ khinh mạt:
“Lũ Giao Chỉ ngu xuẩn! vọng tưởng châu chấu đá voi… quân bây đâu, ta truyền lệnh: đứa nào tạo phản, gi.ết không chừa một ai!”
Tiếng ngựa hí vang dội, tiếng khóc của trẻ con, xen lẫn tiếng thét của người đàn ông đang dần dần cạn kiệt sức sống.
Bầu trời âm u, nhưng đâu đó chân trời phía Tây, ánh tà dương nhuộm đỏ rực cả một góc giống hệt như ý chí của dân Đại Việt, bừng sáng và không bao giờ bị dập tắt.
Chú thích:
[1] Bà Nguyễn Thị Bành (? - ?) là vợ của tướng quân Nguyễn Chích trong kháng chiến chống quân Minh. Vợ chồng bà từng huấn luyện đội quân bồ câu nổi tiếng, lập nhiều chiến công.
[2] Nguyễn Chích hay Lê Chích là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Ông là đệ nhất mưu sĩ của Bình Định Vương Lê Lợi trong thời kỳ chống quân Minh.
[3] Cầu Quan là vùng đất giàu bản sắc văn hóa và kinh tế, từng là trung tâm huyện Nông Cống sầm uất, nơi giao thương nhộn nhịp, có truyền thống cách mạng, tín ngưỡng lâu đời và văn nghệ dân gian đặc sắc như hát ghẹo bên dòng Lãng Giang.
Bình luận
Chưa có bình luận