Ngày đó, có lẽ vì đã ăn cơm phơi khô lâu quá nên đứa nhóc kia thấy xót ruột, muốn ăn chút hoa quả gì đó. Nó trúc trắc bám víu bằng cả tay lẫn chân để trèo lên cây khế ở góc vườn, cố nhoài người ra với lấy mấy quả con con mọc tít đầu cành. Khế non vừa chua vừa chát nhưng nhóc con đó lại ăn rất ngon lành. Nó ngồi vắt vẻo trên cành, vừa nhóp nhép nhai khế vừa nghển cổ nhìn về phía đầu làng, nơi có tấm bạt xanh xanh, đỏ đỏ căng rộng với tiếng nhạc phát xập xình mà chắc đến ba làng gần đó đều nghe được. Đến khi nghe thấy tiếng a lô rõ to của một ai đó cùng tiếng rít chói tai phát ra từ bộ loa đài, nó hoảng hốt giật mình rồi ngã lộn cổ từ trên cây xuống đất. Cú ngã khiến nó hoa mắt chóng mặt, mất cả cảm giác. Nó chẳng thấy đau đớn gì mà trái lại thấy cả người nhẹ bẫng. Đến khi phát hiện cơ thể mình bay lơ lửng được, đứa nhóc đáng thương còn thích thú đu lên cành cao nhất trên cây khế cằn cỗi.
Sau đó nó lại thấy mừng rơn khi có thể bay tới trước mặt mọi người mà người ta không hay biết gì, không hề xua đuổi hay tránh nó như tránh tà. Nó vui vẻ nhìn người ta trò chuyện, vui vẻ nhìn đám trẻ con trong làng chạy chảy khắp nơi. Nhìn đám trẻ con được ăn bao nhiêu thứ đồ ăn ngon, nó thèm thuồng nuốt nước bọt ừng ực rồi rón rén thò tay định ăn vụng một miếng. Lúc phát hiện bàn tay mình bị đồ ăn xuyên qua, nó bối rối đến ngây người. Rồi trong lúc ngây ngốc hết nhìn bàn tay mình lại nhìn đến những thứ đồ xuyên qua tay, nó bị một cơn gió lành lạnh thổi bay đi.
Nó ngơ ngác nhìn những nơi mà mình bay qua, ngơ ngác nhìn những thứ mà nó chưa bao giờ được thấy. Những thứ lạ lẫm đối với nó nhiều vô kể bởi từ trước tới giờ, thế giới của nó chỉ nằm gọn phía trong hàng rào tre nhà bà. Cứ mải ngắm nhìn mọi người, mọi vật, đứa nhóc quên cả sợ hãi, quên cả đói khát, quên cả ngày đêm. Mãi đến khi đâm sầm vào một người đàn ông, nó mới sững sờ, ngước đôi mắt trong veo lên nhìn người đó rồi không biết vì tủi thân, vì sợ hãi, vì ngạc nhiên hay vì mừng rỡ mà nó khóc oà lên.
“Nhóc con, sao con lại dám chạy đến tận đây chơi thế này?” Người đàn ông kia ngồi xuống, nói với nó bằng giọng nói trầm ấm, dịu dàng. “Dám xuất hồn lang thang mà giờ còn sợ phát khóc nữa hả?”
Có lẽ đến bấy giờ thằng bé mới biết sợ nên cứ nức nở mãi không thôi. Người đàn ông kia vẫn vô cùng kiên nhẫn, cứ ngồi yên chờ thằng bé khóc đến lả đi rồi lăn ra ngủ mất. Đến khi tỉnh dậy, thằng bé phát hiện người đàn ông đang ngồi nhắm mắt còn nó thì ôm chặt lấy đùi người ta.
“Con dậy rồi hả? Có nhớ nhà con ở đâu không nào?” Người kia mở mắt ra rồi nhỏ giọng hỏi nó.
Không biết có phải vì sợ quá hay không mà thằng nhóc như thể quên cả cách nói, được hỏi câu nào cũng chỉ biết gật và lắc đầu. Người đàn ông kia khẽ thở dài rồi đặt một đầu ngón tay lành lạnh lên trán nó làm nó hơi sợ. Nó ngồi sững người, tròn mắt nhìn người kia mà không dám nhúc nhích gì. Đến khi cảm thấy đầu ngón tay trên trán mình dần nóng lên, nó mới rón rén cựa quậy. Vừa lúc đó, người đàn ông lại cất giọng bảo nó: “Đi nào, ông đưa con về nhà.”
Nói xong, người ấy ôm nó lên rồi thoắt cái đã đưa nó về đến đúng gốc cây khế nơi nó bị ngã lộn nhào trước khi bay lang thang theo gió. Lúc nhìn thấy cơ thể thằng bé nằm úp sấp co quắp dưới gốc cây, người đàn ông kia sững sờ. Người nó gầy gò, chỉ có da bọc xương, hai mắt nó sưng húp, hai tai nó thì bị chuột hay động vật hoang nào đó gặm rách, máu từ trong tai chảy ra loang lổ, kiến bu đen bu đỏ xung quanh. Chân tay nó đều như thể đã bị gãy hết, mỗi đoạn chi ngoặt về một hướng. Người kia phải hít thở mấy hơi nặng nhọc và kìm nén rồi mới nói với nó bằng giọng nói khàn đặc, nghẹn ngào được: “Giờ con ở đây ngoan nhé! Gắng chịu đựng thêm một chút! Chờ ông, ông sẽ đến tìm con nhanh thôi.”
Sau đó, đang từ trạng thái lâng lâng nhẹ bẫng, nó bỗng cảm thấy cả người đều đau, vừa nóng lại vừa lạnh. Nó thấy rất khát nhưng không sao há miệng ra được. Nó muốn mở mắt nhìn xung quanh nhưng mí mắt lại cứ như thể bị đổ keo bịt kín. Nó cảm thấy có con gì đó bò đi bò lại trên người rồi gặm gặm tay chân nhưng không thể nào nhúc nhích mà đuổi đi được. Nó sợ muốn khóc nhưng cũng không thể nào khóc lên được. Nó vô cùng, vô cùng nhớ người đàn ông kia, cực kỳ, cực kỳ mong người ấy quay lại tìm nó như đã hứa. Nó cứ đắm chìm trong mớ cảm giác hỗn độn, hết sợ hãi lại đến đợi mong rồi cuối cùng mơ màng thiếp đi.
Đến lúc thức dậy, thằng bé phát hiện mình đang ở nơi nào lạ lắm! Xung quanh nó có chăn đệm sạch sẽ, thơm tho, vừa êm vừa ấm. Nó còn thoáng ngửi thấy mùi gì hăng hăng, ngai ngái, có vẻ là thứ gì đó rất đắng lại khá giống với mùi lá thuốc mà ngày trước, khi còn chưa theo mây về trời, bà nó hay phơi. Nó muốn ngồi dậy để xem thử xem mình đang ở đâu nhưng vừa khẽ cựa quậy, cả người nó đã đau như thể vừa bị ai vác gậy đánh cho một trận. Thằng bé xuýt xoa, mặt mũi nhăn rúm, đau đến ứa nước mắt, đến mức chỉ trong nháy mắt mà mồ hôi đã vã ra như tắm. Thế nhưng nó lại không dám khóc oà lên mà cứ cắn chặt răng chịu đựng. Có lẽ do bị hắt hủi quá lâu, do đã quen với việc nhẫn nhịn nên nó không biết rằng là một đứa trẻ con, lúc bị đau, nó cũng có quyền được khóc.
“Đừng vội, đừng vội. Ông ở ngay đây. Con cứ nằm yên đấy đã.” Đến tận khi nghe thấy giọng nói trầm ấm mà mình vẫn luôn ước ao, mong ngóng trước lúc ngất lịm đi, thằng bé mới thấy tủi thân, khóc oà lên nức nở.
“Ông ơi.” Thằng bé cất tiếng gọi làm ông lão thoáng ngỡ ngàng. Gọi xong, nó lại khóc hu hu, nước mắt nước mũi chảy lã chã.
Ông lão cười hiền từ lau mặt mũi cho nó, đút cháo cho nó ăn, đút thuốc cho nó uống, mỗi ngày đều nắn bóp tay chân cho nó, sau đó lại dìu nó tập đi từng bước. Bởi thằng bé cũng chẳng còn chốn về mà ông lão cũng thấy mặt mũi nó hợp nhãn duyên nên đã để nó ở lại với mình. Ông lão bảo thằng bé gọi mình là thầy, đặt tên cho nó, cho nó đi học rồi còn dạy cho nó rất nhiều thứ mà trước giờ nó chưa từng biết, đưa nó đến những nơi mà trước giờ nó chưa từng được đi.
Sau đó, thằng bé phát hiện được một bí mật cực kỳ đáng kinh ngạc. Có một lần nó bị ngã gãy tay lúc chơi đùa ở trường với đám bạn choai choai nhưng điều kỳ lạ là nó lại không cảm thấy quá đau đớn mà chỉ hơi vướng víu, khó chịu. Không những thế, mới chỉ qua vài ngày mà xương cánh tay nó đã hoàn toàn liền lại như cũ. Lúc ấy nó mới biết bí mật kia. Hoá ra, ngày còn bé, lúc nó bị ngã từ cây khế xuống, xương cốt toàn thân nó đều đã vỡ vụn một lần. Ngày ấy, không biết ông lão đã dùng cách phi thường nào mà có thể rút một khúc xương của chính bản thân mình để luyện cốt và đắp nặn lại từng đoạn xương cho nó.
Tai nó từng bị gặm nát, từng bị chảy máu ròng ròng nhưng cũng nhờ có ông lão mà không bị điếc. Có điều, hễ cứ nghe thấy những thứ tiếng rít chát chúa, chói tai là cả người nó sẽ bủn rủn, phản ứng chậm chạp hơn hẳn so với bình thường. Có lẽ là do tiếng rít của loa đài ngày trước khiến nó bị ngã lộn từ trên cây xuống đất đã tạo thành vết sẹo quá lớn trong ký ức nên dù đã qua lâu rồi mà cơ thể nó vẫn không thoát khỏi nỗi ám ảnh ấy. Có đôi khi, nó còn vô tình nghe được những tiếng thủ thỉ hoặc oán than, nghe thấy tiếng cười hằn học hoặc tiếng khóc não nề từ một nơi nào đó trong khi rõ ràng không nhìn thấy bất cứ một ai. Thậm chí, có nhiều khi, nó còn vô tình nghe được những suy nghĩ ác độc hoặc sợ hãi hoặc ngưỡng mộ hoặc ghen tị của mọi người đối với mình. Nó dè dặt nói với ông lão lúc ấy đã là thầy mình, chỉ sợ thầy nghĩ mình quái dị mà đuổi đi nhưng chẳng ngờ thầy lại chỉ cười khà khà bảo nó đừng sợ, là học trò của thầy thì không thể không nghe thấy những âm thanh ấy được.
Lúc lớn hơn chút nữa, nó được ông lão dạy dỗ nghiêm túc một phen. Nói là nghiêm túc nhưng ngay trong buổi học đầu tiên, nó lại bị ông lão gõ cốc một phát vào trán, bảo muốn làm gì thì cứ thử làm đi. Đến khi thằng bé gầy như quỷ đói ngày nào lớn bổng thành một cậu học trò đĩnh đạc, có thể học được mọi thứ mà mình chỉ dạy, làm được mọi chuyện mà mình yêu cầu, ông lão cũng ung dung bỏ lại cho nó cái chức vô thường sống cực kỳ… vô thường và cả nhiệm vụ dìu dắt người học trò thứ ba và cũng là học trò cuối cùng của ông ấy rồi cưỡi mây bay về trời, về với thế giới huyền hoặc, xa xăm.
Thằng bé kia chưa một ngày nào lơ là nhiệm vụ của một vô thường sống mà thầy nó đã giao. Mỗi đêm nó đều đi khắp các nẻo đường, tìm những linh hồn bé bỏng còn bơ vơ lưu lạc để đưa các em về ngôi nhà chung, để các em ngủ một giấc thật ngon trước khi tiễn các em đi vào cõi luân hồi. Nó yêu thương, kính trọng ông lão và cũng luôn biết ơn ông lão, biết ơn đoạn cốt vô thường cho nó một cuộc đời mới nên luôn mặc định làm vô thường sống là trách nhiệm của mình. Cũng bởi trong người có một đoạn cốt vô thường của ông lão mà từ bé đến lớn, nó đã bị những thứ không thể giải thích bằng khoa học ghé thăm không biết bao nhiêu lần. Có điều, nó vẫn luôn bình an vô sự. Có thể là vì sức mạnh mà ông lão để lại cho nó trong đoạn cốt vô thường ấy đủ lớn để bảo vệ nó khỏi yêu ma, quỷ quái nhưng cũng rất có thể như lão quỷ khói kia chê, nó là đứa dặt dẹo, tuy có chút sức hút của cốt vô thường nhưng suy cho cùng thì cũng chỉ có một bộ xương vỡ nát được chắp vá lung lung bằng một đoạn cốt vô thường ấy mà thôi.
“Anh đã từng tự hỏi rất nhiều lần rằng không biết vì lý do gì mà thầy lại giao nhiệm vụ dìu dắt học trò của ông ấy cho anh.” Hiếu vừa cười nhàn nhạt vừa nói với Linh. “Đến hôm nay anh lại càng không hiểu. Một người chỉ có mỗi một đoạn cốt vô thường gắn những khúc xương vỡ vụn thì phải dạy một người có căn vô thường, cốt vô thường bằng cách nào được đây?”
Bình luận
Chưa có bình luận