Khói thuốc trên sông Tiền



Đêm mùng 6 tháng Chạp, trời se lạnh, gió bấc thổi nhẹ từ hướng Cửa Đại ngược lên làm mặt sông Tiền nổi sóng lăn tăn như vảy cá. Theo sau ghe lườn và ghe tam bản, chiếc ghe bầu của gánh hát Long Phụng cũng bắt đầu khục khặc, khạc ra từng cục khói đen trước khi chịu tắt hẳn. Tài công cho ghe cập bến Mỹ Tho, nơi người ta thường đốt pháo đón giao thừa sớm.

Mùi đêm ở đây không giống bất kỳ nơi nào khác. Nó là mùi cá linh khô nướng than còn khen khét trên đầu ghe, mùi nước mắm mới gánh từ lò về còn hăng hăng đến xốc mũi, mùi nhang đèn từ những ngôi miếu nhỏ ven sông thoảng lại theo gió, mùi bùn non vừa được cày lên từ mấy đám ruộng gần đó, mùi khói thuốc rê nồng nồng, và cả mùi mồ hôi của gần hai chục con người chen chúc trên ghe suốt nửa tháng trời nay. Tất cả quyện vào nhau, đặc quánh, bám chặt vào da thịt, vào tóc tai, vào từng sớ ván gỗ sao đã đen sậm vì khói bếp.

Cô Hai Lan ngồi ngay chỗ mũi ghe tam bản cong cong, nơi người ta thường cắm cây sào tre để neo khi cập bến. Chân cô thõng xuống nước, guốc mộc đã cởi ra để một bên, bàn chân trần ngâm trong dòng sông mát lạnh. Áo bà ba đen đã phai màu nắng, vải mỏng đến mức nhìn kỹ có thể thấy cả đường viền áo lót màu trắng bên trong. Khăn rằn quấn cổ lỏng lẻo, một góc khăn bị gió thổi tung bay như lá cờ nhỏ. Mười chín tuổi mà đôi mắt đã sâu hoắm, sâu đến mức người ta bảo nhìn vô là thấy cả kiếp sau. Điếu thuốc rê to bằng ngón tay cái cháy đỏ, cô hít một hơi thật dài, rồi phà khói trắng lên mặt sông đen như mực tàu, khói loãng dần rồi tan biến vào màn sương mỏng đang trôi lững lờ trên mặt nước.

Trăng lưỡi liềm của tháng cuối năm treo lơ lửng trên ngọn dừa nước bờ nam, chiếu xuống mặt sông thành một vệt bạc dài, chập chờn theo từng con sóng nhỏ. Xa xa, mấy chiếc ghe thương hồ chở trái cây từ Bến Tre lên đốt đèn măng-sông sáng trưng, ánh sáng hắt lên những khuôn mặt rám nắng, lên những bó chuối sứ chất cao ngất, lên những cần xé đựng đầy bưởi và cam sành. Tiếng người chào nhau ơi ới, tiếng cười nói vang vọng, tiếng chó sủa từ bờ bên kia vọng lại, tiếng máy nằm của một chiếc ghe khác đang ngược dòng về hướng Cái Bè. Tất cả hòa quyện thành một bản nhạc đêm quen thuộc mà chỉ những người sống trên sông nước mới nghe ra được từng nốt.

Ông bầu Tư Đời – người nhỏ thó, râu bạc lởm chởm – bước ra đầu ghe, tay cầm cái đèn dầu hột vịt leo lét. Ánh sáng vàng yếu ớt chiếu lên khuôn mặt đầy nếp nhăn của ông, chiếu lên đôi mắt đỏ vì thiếu ngủ và vì rượu đế.

“Sao không lên bến với anh em mà ngồi mình ên vậy con?” Ông hỏi, giọng chỉ vừa đủ để người đối diện nghe được.

Cô Hai Lan vẫn ngồi im, phà một hơi khói dài, mắt nhìn vệt trăng lung linh in nơi đáy nước.

“Thuốc rê mà bây hút hoài.” Ông bầu tặc lưỡi, thoáng ngưng giây lát rồi mới lại nói tiếp, trong âm thanh già nua mang theo mấy phần bất lực. “Đào chánh mà khàn giọng là chết cả nút nghen con.”

Cô Hai bật cười. Một tiếng cười rất khẽ, và cũng rất hiếm hoi.

“Không cho con hút thuốc rê nữa, vậy con chuyển qua hút thuốc phiện nghen bác Tư.”

“Tổ cha bây...”

Mắng vài tiếng vậy rồi thôi, ông Tư Đời không nói thêm gì nữa.

Thấy ông không nói, cô Hai Lan cũng thu lại nụ cười. Cô đưa tay vuốt lọn tóc mai dính vào má, rồi bất chợt cầm cây đờn kìm cũ mèm để dựa mạn ghe – kỷ vật mà mẹ cô để lại trước khi chết vì lao phổi mười năm về trước. Cây đờn tróc sơn, dây đồng đã xỉn màu, nhưng tiếng vẫn ngọt như đường phèn. Cô buông nhẹ câu vọng cổ, ngón tay lướt trên dây đờn như lướt trên da thịt người yêu:

“Từ là từ phu tướng
Bảo kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng...”

Tiếng đờn vừa dứt, cả khúc sông như lặng đi vài giây. Mấy ông trên ghe thương hồ ngừng chèo; bà già bán hủ tiếu trên bến cũng ngừng quạt, miệng lẩm bẩm: “Cô Hai Lan hát mà sao giống má cô Hai hồi xưa quá.”

Một ông già ngồi hút thuốc lào bên kia bến cũng phà khói, thở dài: “Coi cô Hai hát một lần là nhớ cả đời...”

Ông Tư Đời nghe xong cũng phải im lặng một lúc, rồi mới lắc đầu, vừa thương vừa giận: “Má nó, hát cái gì mà buồn như đứt ruột vậy con. Tháng cuối năm, hát câu vui chút đi chớ. Hát Dạ cổ hoài lang hoài làm chi cho người ta khóc.”

Cô Hai Lan cười khẩy, nụ cười không vui mà cũng chẳng buồn, chỉ là cái nhếch mép của người đã quen với buồn. Cô phà thêm một hơi khói dài, khói trắng bay lượn lờ như hồn ma: “Thì nào giờ con hát cho người ta khóc chớ có hát cho người ta vui đâu, bác Tư.”

Ông Tư Đời định nói gì đó, nhưng lại thôi. Ông biết tính cô Hai Lan. Biết từ ngày mẹ cô – cô đào chánh gánh hát Long Phụng một thời – chết trên sân khấu khi đang hát dở câu vọng cổ, máu phun ra đỏ cả áo ngũ thân trắng. Biết từ ngày cô lên mười đã phải thế vai mẹ, hát những bài buồn đến mức người xem khóc hết nước mắt, rồi dúi tiền lẻ đầy cả nón lá. Biết rằng cái buồn trong giọng hát của cô không phải diễn, mà là thật, thật đến tận xương tủy.

Cô Hai Lan quay lại nhìn đoàn hát đang dỡ đồ xuống bến. Thằng Tý mười lăm tuổi, mặt còn lấm lem phấn son từ buổi diễn ở Kinh Xáng, đang vác cái trống cái nặng trịch, thở hổn hển. Chị Ba Đào ôm đứa con gái ba tuổi ngủ gật trên vai, mắt đỏ hoe vì thiếu ngủ. Ông Năm Cò chống gậy, ho khù khụ vì lao phổi, mỗi lần ho là một lần như sắp chết. Cô Sáu Nhạn – vợ ông bầu – đang chia bánh tét cho cả đoàn, giọng khàn khàn vì hát tuồng quá sức. Tất cả đều là người nhà, là máu thịt của cô từ ngày còn bé tí. Họ đói thì cô đói, họ khổ thì cô khổ gấp trăm lần.

Cô lại hít một hơi thuốc nữa, nhìn ra sông. Nơi xa, ánh đèn từ mấy chiếc tàu hơi nước Pháp lấp loáng trên dòng sông cái, tiếng còi tàu rú lên từng hồi kéo dài, như báo hiệu một năm mới sắp đến, nhưng cũng như nhắc nhở cái thân phận con hát của cô: trôi nổi, lênh đênh, không bến không bờ, không chồng không con, chỉ có tiếng hát và những đêm cô quạnh như vầy.

Cô thì thầm, chỉ đủ cho gió nghe, đủ cho sông nghe: “Cũng không biết mình còn được hát bao lâu nữa… còn được ngồi đây hút thuốc rê nhìn sông bao lâu nữa…”

Rồi cô dụi điếu thuốc vào mạn ghe, đứng dậy, bước xuống khoang. Tiếng guốc mộc gõ nhẹ trên ván ghe vang lên từng nhịp, đều đặn, buồn bã, hòa vào tiếng nước vỗ, tiếng gió thổi, tiếng chó sủa xa xa, và tiếng lòng ai đó đang rưng rưng giữa đêm lạnh.

Ngoài kia, sông Tiền vẫn chảy, mang theo mùi nước mắm, mùi nhang đèn, mùi khói thuốc rê, mùi mồ hôi, mùi máu mủ của những con người sống nhờ tiếng hát, và cả câu vọng cổ vừa rồi của cô Hai Lan, trôi mãi về phía biển khơi mênh mông, nơi chẳng ai biết ngày mai sẽ ra sao.

Nhưng đêm nay, ít nhất cô vẫn còn ngồi đây, trên mũi ghe cong cong, còn nghe được tiếng nước vỗ, còn ngửi được mùi nước mắm, còn hút được điếu thuốc rê cuối cùng của đêm cũ.

Còn sống, là còn hát.
Và còn hát, là còn nhớ.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout