Chương 2: Nhà cổ họ Đỗ




Sau khi Ánh Linh kể với bà ngoại về lời mời của Xuân Hằng, bà tỏ ra lưỡng lự như đang nghĩ về chuyện gì đó, rồi bà hỏi cô, rằng ăn xong sinh nhật lần này là cô tròn bao nhiêu tuổi. Nghe Ánh Linh nói đến con số hai mươi tuổi, bà bỗng thay đổi quyết định, chẳng chút do dự đồng ý đi cùng cô, còn nói sẽ nấu vài món ngon mang theo cho mọi người cùng ăn.

Giây phút ánh mắt chứa đầy tình thương của bà ngoại nhìn sang chỗ Ánh Linh, cô vẫn đang cặm cụi quét dọn nhà cửa nên không nhận ra trong ánh mắt ấy thoáng vụt qua nỗi ưu tư riêng khó tả thành lời.

“Cháu gái của bà càng lớn càng xinh đẹp.”

“Đó là vì cháu có một người bà xinh đẹp và một người mẹ xinh đẹp.”

“Cháu cũng mạnh mẽ như cha của cháu vậy.”

Bà ngoại trìu mến vuốt nhẹ chóp mũi của Ánh Linh ngay thời điểm cô sà vào lòng bà. Hai người trò chuyện thêm một lúc lâu mới bắt đầu dọn cơm ăn. Ánh đèn đường hắt xuống con hẻm nhỏ, soi sáng mảng màu đen đặc như muốn xua đi những thứ tăm tối. Tiếng xe cộ qua lại truyền vào màng nhĩ tựa khúc nhạc đệm thầm, tạo thêm âm thanh cho màn đêm tĩnh lặng.

Đợi cho Ánh Linh ngủ say, bà Nga nhẹ nhàng ngồi dậy, cẩn thận chỉnh lại chăn cho cô rồi bước đến trước chiếc kệ thờ đơn giản đặt ở góc phải của căn trọ, thắp ba nén nhang cho cha mẹ quá cố của cô. Đóm sáng màu đỏ sáng rực giữa khoảng không tối mò, tựa đang châm ngòi cho một tia hy vọng mong manh.

“Hai đứa phù hộ và soi đường dẫn lối cho bé Linh nhà ta đúng không?”

Bà Nga nhỏ tiếng nói, như tự hỏi mình, lại như hỏi người khuất mặt chẳng thể trả lời được. Bà cắm nhang vào lư hương, sau mới an lòng quay về giường ngủ. Căn nhà trọ này không quá lớn, nó vừa đủ với nhu cầu sử dụng của bà và Ánh Linh. Họ chỉ cần chỗ ngủ sạch sẽ, khu bếp gọn gàng và một kệ thờ đủ trang nghiêm. Bà choàng tay ôm lấy Ánh Linh, nhắm mắt chìm vào giấc mơ đẹp. Mong những ngày sắp tới của cô cháu gái nhỏ luôn được suôn sẻ, bình an dù có bà đi cùng hay không.

Cuối tuần đến nhanh như một cơn gió hè, Ánh Linh đã bàn bạc xong với người bạn làm chung, cô sẽ tận dụng ngày nghỉ phép trước rồi đến lượt cô ấy, thời gian nghỉ như nhau, tròn một tuần. Xuân Hằng hẹn gặp Ánh Linh ở Trạm Dừng. Ánh Linh và bà ngoại xếp đồ xong thì bắt xe buýt đến đó cho tiện. Họ canh thời gian vừa chuẩn, không quá sớm hay quá trễ.

Đợi chừng năm phút, có một chiếc ô tô bảy chỗ dừng lại trước mặt hai người. Xuân Hằng vui vẻ xuống xe, lễ phép chào bà Nga, cười tươi rói mời bà và Ánh Linh lên xe. Cặp chị em song sinh Ngọc Như, Ngọc Bích ngồi ở phía trong cũng lễ phép chào bà Nga rồi tiếp tục dán mắt vào điện thoại. Người lướt mạng xã hội, người tập trung nhắn tin với bạn trai.

Quê của Xuân Hằng nằm ở tỉnh Phước Thọ, cách thành phố Nam Thịnh khoảng hai giờ ngồi xe ô tô. Trên đường đi, Xuân Hằng luôn miệng giới thiệu quê mình cho mọi người nghe. Mà người thật sự lắng nghe chỉ có bà Nga và Ánh Linh, cặp chị em song sinh vẫn chọn quan tâm điện thoại của mình vì nó thu hút họ hơn.

Xuân Hằng nói ở đó có một ngôi nhà cổ tuổi đời đã hơn trăm năm. Nhà được xây bằng gỗ lim với hai mươi cột trụ, bên trên lợp mái ngói âm dương màu đỏ gạch. Công trình ấy nằm trên một mảnh đất rộng lớn. Ngoài ra, còn có một cây xoài cổ thụ trụ lâu thật lâu ở phía Đông; một cái giếng cổ nằm ở phía Bắc, bên cạnh có miếu thờ Ngũ Hành [3] và miếu thờ Rồng Thần [4].

Cách nhà cổ chừng hai mươi phút đi xe đạp, mười phút đi xe máy là một khu đất khá rộng khác được dùng làm nơi đặt mộ tổ của dòng tộc họ Đỗ, ở đối diện có một con kênh đào nối thẳng ra sông. Nghe đến đây, sắc mặt bà Nga tái nhợt, lập tức hỏi lại: “Gần nhà cháu có một con sông à?”

Xuân Hằng không để ý nói: “Dạ, đúng là có một con sông, nhưng không ở gần nhà cháu đâu ạ! Muốn tới sông thì phải đi thêm ba mươi phút nữa.”

Lúc này bà Nga mới nhớ lại những lời Xuân Hằng nói. Đâu chỉ có mỗi sông thôi, còn thêm một cái giếng cổ nữa. Không được rồi. Bà vừa muốn nói gì đó nhưng lại cảm nhận được bàn tay nhỏ nhắn của Ánh Linh đang nắm lấy tay mình, bà quay sang, chỉ thấy cô mỉm cười như đang trấn an bà. Lát sau, cô bèn khơi gợi để Xuân Hằng tiếp tục giới thiệu về nhà cổ.

Chẳng mấy chốc xe đã tiến vào địa phận của tỉnh Phước Thọ, chạy thêm một đoạn thì rẽ sang trái, tiếp tục lướt nhẹ trên mặt nhựa. Ánh Linh nhìn thấy một cái cổng chào nhỏ hình vòng cung bắt ngang qua con đường hai chiều có diện tích khiêm tốn và vỉa hè từ xa, xe đến gần hơn cô mới đọc được dòng chữ trên đó. Làng An. Ngắn gọn, dễ hiểu.

Song, cô choáng váng khi nghe Xuân Hằng nói: “Bắt đầu từ cổng chào vào sâu bên trong là toàn bộ đất thuộc về nhà mình đấy!”

Giàu ghê! Nội tâm Ánh Linh không ngừng gào thét. Cô mải mê ngắm nhìn cảnh vật ngoài khung kính, lặng lẽ đè nén sự ngưỡng mộ vừa trỗi dậy xuống, cố tỏ ra thật bình tĩnh trước những gì nghe được. Bà Nga hiểu trạng thái cảm xúc hiện tại của cô cháu gái nhỏ, nhẹ nhàng vỗ một cái lên mu bàn tay cô như trách cứ. Ánh Linh tinh nghịch nhìn bà, xấu hổ lè lưỡi khiến bà vừa cười vừa lắc đầu.

Xe tiếp tục rẽ sang con đường nhỏ hơn, chạy thêm một đoạn ngắn rồi dừng lại trước một cánh cổng lớn màu nâu sẫm bóng loáng bằng gỗ. Hai bên là hàng gạch nung xếp chồng lên nhau, tạo thành bức tường vững chắc và kiên cố, kéo dài xa tít tắp như chẳng có điểm cuối. Tài xế giúp mọi người lấy vali xuống xe, hẹn giờ đón với Xuân Hằng rồi rời đi.

Ánh Linh ngước nhìn tấm bảng viết dòng chữ “Nhà cổ họ Đỗ”, các nét đầy lực, uy nghi, mang đậm dấu ấn xưa. Lòng cô dâng lên loại cảm xúc lạ mà quen. Xuyên qua những kẽ hở trên cánh cổng, cô thoáng thấy một tà áo mềm mại màu xanh rêu. Hình ảnh phớt nhẹ qua khiến cô nghĩ mình bị hoa mắt. Cô chớp mắt, chăm chú nhìn kĩ lại. Đúng là cô bị hoa mắt.

Xuân Hằng mở cổng, mời mọi người vào trong. Mãi đến khi ngôi nhà cổ bề thế dần hiện ra trước mắt, Ánh Linh hoàn toàn sững sờ. Cô không dám nhìn ngó lung tung, chậm rãi nhìn qua bà ngoại, khẽ cười nói nhỏ: “Cháu chính thức xác nhận, nhà của Hằng giàu một cách… không thể tin nổi.”

Ngôi nhà ba gian [5] trước mặt là thứ Ánh Linh chưa từng nhìn thấy trong đời, nhưng bà ngoại của cô đã từng thấy qua rồi. Trong ký ức của bà, có một mảnh ghép chứa đựng hình ảnh tương tự ngôi nhà này, hình như là từ một bức ảnh ố màu trong quyển album ảnh của bà cố của bà, cũng chính là bà sơ của Ánh Linh.

Tiếc thay, quyển album ấy đã biến mất cùng đám cháy năm xưa. Rất lâu trước đây, nhà của bà cố từng xảy ra một trận hỏa hoạn. Có rất nhiều đồ vật kỉ niệm bị chôn vùi trong tro tàn năm ấy. Nhớ lại chuyện xưa khiến cặp mắt bà Nga đượm buồn, bà kéo tay Ánh Linh, hai người dần đi chậm hơn, cách xa Xuân Hằng và cặp chị em song sinh.

Bà nói nhỏ với cô: “Nhà của người Việt xưa thường chú trọng Ngũ Hành trong xây dựng. Nếu bà đoán không lầm thì ngôi nhà được xây ở vị trí trung tâm của khu đất này, biểu trưng cho hành Thổ. Nhà kho đặt ở hướng Tây, biểu trưng cho hành Kim. Nhà bếp ở hướng Đông, biểu trưng hành Mộc. Ở hướng Nam của ngôi nhà có đầy đủ các yếu tố đại diện cho hành Hỏa. Sau nhà có thể là vị trí của giếng cổ, hướng Bắc, biểu trưng cho hành Thủy.”

Ánh Linh ngơ ngác dừng bước, đây là lần đầu tiên cô nghe bà nói về những kiến thức này. Trong đầu cô vụt qua một suy nghĩ. Bà ngoại cô biết xem phong thủy ư? Cô tròn mắt nhìn bà, mãi chẳng biết nói gì.

Bà chỉ tay về trước, thì thầm nói tiếp: “Cháu nhìn xem. Bể cạn đó chắc là nơi tụ khí, cũng là nơi hội tụ Ngũ Hành. Nước, thực vật thủy sinh, cá, hòn non bộ giữa bể, mặt nước óng ánh khi ánh nắng chiếu xuống, thành bể còn có các mảnh sành trang trí kia kìa. Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim đủ cả.”

Ánh Linh vẫn không thể thốt được câu nào.

Bà ngoại cười nhẹ, giọng du dương tưởng chừng có thể ru người ta vào miền ký ức xa xăm: “Người xưa tin rằng ‘Dương trạch định thân, âm trạch định mệnh’. Nghĩa là nhà ở quyết định đời sống hiện tại, còn mồ mả quyết định vận mệnh dòng họ lâu dài. Những điều này do chính ông ngoại cháu dạy bà đấy! Không ngờ hôm nay lại có cơ hội nhìn thấy cảnh thật và chỉ cho cháu. Nếu ông ngoại cháu còn sống, ắt hẳn sẽ truyền thụ rất nhiều kiến thức về phong thủy cho cháu. Bà không hứng thú với bộ môn này lắm nên chữ nhớ chữ quên, chẳng biết có nhớ sai chỗ nào không nữa.”

Ánh Linh: “…”

Tạm thời cô vẫn chưa tiêu hóa lượng kiến thức vừa tiếp thu.

Bà ngoại dịu dàng vuốt tóc cô, nói một cách chậm rãi: “Ông ngoại cháu nói, người Việt luôn muốn một cuộc sống có trước có sau, trong giao tiếp phải kính trên nhường dưới, cưới xin phải môn đăng hộ đối, trong ngôi nhà cũng phải âm dương hòa hợp, hội tụ đủ các yếu tố của Ngũ Hành thì gia đình mới bình an, thịnh vượng.”

“Bà ơi, Linh ơi, hai người mau qua đây đi!”

Giọng nói hồ hởi của Xuân Hằng vang lên, đánh thức, hối thúc bà Nga và Ánh Linh. Cả hai nhanh chóng đi vào nhà cổ. Gian giữa của nhà cổ được dùng làm nơi thờ cúng tổ tiên và tiếp đón khách khứa. Cặp chị em song sinh Ngọc Như, Ngọc Bích đang ngồi trên trường kỷ [6], nhàn nhã uống trà. Đó là một bộ trường kỷ bằng gỗ, nhìn rất sang trọng với những đường nét điêu khắc tỉ mỉ. Xuân Hằng rót thêm hai ly trà, bưng một ly đưa cho bà Nga khi bà vừa ngồi xuống trường kỷ, nói: “Cháu mời bà uống trà ạ.”



Chú thích:

[3] Miếu thờ Ngũ Hành (hay Miếu Bà Ngũ Hành): Là một loại miếu thờ phổ biến ở Nam Bộ, Việt Nam. Thờ Ngũ Hành nương nương - các vị thần đại diện cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - gồm có Kim Đức Thánh Phi (áo trắng), Mộc Đức Thánh Phi (áo xanh), Thủy Đức Thánh Phi (áo đen), Hỏa Đức Thánh Phi (áo đỏ), Thổ Đức Thánh Phi (áo vàng); với ý nghĩa cầu bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no.

[4] Rồng Thần: Nhân vật hư cấu. 

[5] Nhà ba gian: Là một kiểu kiến trúc truyền thống của người Việt, có thiết kế ba gian phòng; gồm một gian chính có diện tích lớn nhất, dùng làm nơi thờ cúng và đón tiếp khách; hai gian nhỏ hai bên đối xứng, kê giường, sập dùng làm nơi nghỉ ngơi.

[6] Trường kỷ (hay Tràng kỷ): Là một loại ghế dài truyền thống của Việt Nam, thường được làm bằng gỗ và có lưng tựa, bao gồm hai ghế dài và một bàn.

50

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

  • avatar
    Hoa Trong Sương

    Đất rộng thẳng cánh cò bay luôn á 

Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout