Miệng
Chỉnh khẩu trang lại cho ngay ngắn, Giác lấy hết dũng khí để đẩy hé cửa chính nhà mình (sao lại cần phải lấy hết dũng khí để mở một cánh cửa nhỉ?). Lấp ló bên ngoài là một thế giới đầy nắng, im lìm như một giấc mộng xa xưa. Anh nhìn tất cả mọi thứ qua khe cửa hẹp. Dù biết việc cảm động với con hẻm trước nhà là ngu ngốc, nhưng anh không kìm nổi cảm giác bải hoải đến từ một thứ ấn tượng lâng lâng. Thế giới ở ngoài đó, cuộc sống ở ngoài đó, vậy thì trong đây là gì? Chậu cây dừa kiểng xanh mướt của nhà đối diện lộng lẫy như một người mẫu đang bước trên sàn diễn với đầy ánh đèn chiếu vào. Dưới gốc dừa là những lá dương xỉ, lượn xuống, những đường cong ngọt ngào trong nắng. Anh cũng ngửi được mùi đó – dù là qua lớp khẩu trang – mùi của nắng ám vào những ga gối ga giường sau khi đem chúng ra phơi ngoài trời cả ngày trên sân thượng.
Thì ra hôm nay là một ngày đẹp trời, Giác gật gù, dù đã gần trưa đến nơi anh mới nhận ra điều đó. Một ngày tháng 8 với bầu trời xanh và những tia nắng tháng 8, như thể anh có thể đem cảnh tượng này cho ai đó xem, để chứng minh rằng thế giới này rất đẹp, dù chẳng biết chứng minh điều ấy để làm gì. Con đường quang đãng và tĩnh lặng, những ô gạch bàn cờ đen trắng nối nhau liên tục, tại sao trước đây anh chưa bao giờ để ý đến sân gạch nhà hàng xóm nhỉ? Chắc khi dịch tan rồi anh sẽ qua chào hỏi họ (nếu anh và họ cùng sống sót).
Chẳng phải thế giới nên như vậy sao: một buổi sáng tháng 8 tĩnh lặng như một thước phim, với nắng ấm và sự phô trương của những màu sắc. Có một lần Nhiên hỏi anh cái cây to đùng bên đường đối diện nhà mình là cây gì, khi ấy anh đã không nhìn theo tay con bé, chỉ trả lời qua quýt đó là một cây kiểng. Tại sao thêm một chữ “dừa” vào câu trả lời lại khó khăn đến thế? Nếu biết sớm bi kịch hôm nay thì hồi ấy anh đã trả lời những câu hỏi của con bé nhiều hơn: một cách nghiêm cẩn, quan trọng, tỉ mỉ, vui sướng và trách nhiệm. Anh sẽ trả lời tất cả mọi câu hỏi của con, tất cả, miễn có thêm cơ hội.
Đoạn, một tràn còi xe cứu thương vang lên xoá tan bức tranh của anh. Chiếc xe cứu thương ò e, nháy đèn ầm ĩ, lướt qua với cơ thể bệ vệ, tròn lẳn như một con bọ rùa, để đến nhà ai đó sâu tít trong hẻm. Giác thở dài, dù đã chạy khuất rất xa nhưng anh vẫn nghe rõ hồi còi của nó, không chắc đó là dư âm để lại hay là thật. Bỗng nhiên, Giác nghĩ, mọi thứ đã diễn ra như thế sao: Mãn Giác thiền sư, trong những ngày cuối đời ông, đã viết một bài kệ, rồi gọi chúng tăng đến, đứng trước mọi người và rì rầm đọc bài kệ để thông báo về bệnh tình của mình, khuyên người ở lại đừng đau buồn quá về cái chết của mình, bởi vì thế giới là một vòng tuần hoàn (vòng tròn ấy không hoàn hảo, nhưng cũng không quá tệ). Thì ra đã có một thời kỳ người ta vui vẻ khi thông báo mình mắc bệnh, mọi người lắng nghe kỹ lưỡng từng câu từng chữ, vì đó là tác phẩm vô cùng hiếm hoi của một vị cao tăng mà chắc chắn sau này người đời sẽ không thể quên. Và ông ấy đã thành công để lại tên tuổi của mình trong đời, chỉ với một bài kệ bảo rằng mình bị bệnh.
Tuyệt vời làm sao! Giác đóng cửa lại, quay vào nhà và hạ khẩu trang xuống để hít thở. Thật tuyệt vời làm sao khi ông ta đã có thể làm được điều ấy: đã nói ra với mọi người, một cách thẳng thắn và hiên ngang, rằng mình đang mắc bệnh sắp chết. Trong khi đó, anh ở đây và phải cố diễn như mình ổn dù chẳng còn nhận ra ly cà phê vừa pha có vị gì nữa. Bỗng nhiên, anh ước gì bản thân có thể sống ở đó, cùng thời với sư Mãn Giác – chỉ là một ai đó bên cạnh ông ta thôi. Sẽ không có Covid, không có chết chóc, không có phản bội, không có lockdown, không có căng dây, không có xe cấp cứu, không có những hủ tro cốt gửi về nhà (ai mà biết được đó có đúng là tro cốt của người thân mình hay không, hay mình đang thờ người thân của kẻ khác, nhưng mà người thân của kẻ khác cũng không sao, chúng ta cứ thờ lẫn nhau cũng tốt, đây là thời “Hậu hiện đại” cơ mà), không có giấu bệnh, không có vacxin (anh phải cảm ơn ba mũi tiêm hoàn toàn miễn phí, cảm ơn cả những bác sĩ xông pha tuyến đầu), không có khẩu trang, không có cách nhau ít nhất 2 mét, không có vợ bị bệnh liệt giường và đến cả việc thở cũng trở nên khó nhọc, không có gặp nhau qua những đường truyền khấp khểnh… Trong thoáng chốc, anh cứ ngỡ mình đã ở đó, giữa một ngôi chùa yên tĩnh, với một cội mai khẳng khiu ngoài vườn đang nhú lộc, đồng thời cũng ở đây, với chậu cây dừa kiểng quá diêm dúa và gần như có gì đó đáng ngạc nhiên của nhà đối diện; vừa nghe thấy tiếng tụng niệm khấn vái vừa nghe thấy tiếng còi xe cấp cứu; vừa quỳ lạy trước tượng Phật đúc đồng vừa ngồi trước màn hình laptop; vừa đọc Kinh trì chú vừa đọc một mẩu truyện ngắn không được đăng của tạp chí Nam Phong để viết luận án Tiến sĩ.
Huy sẽ nói gì khi thấy Giác lúc này – một người đã từng bảo rằng sẽ cố gắng để vươn đến ngang bằng hay vượt qua cậu ấy, nay lại bất ngờ nhận ra bản thân vô cùng bình thường, với những cuộc chiến quá bình thường: con gái mất, vợ bệnh, làm luận án Tiến sĩ và phải ở nhà vì dịch bệnh hoành hành? Không thể tin rằng Giác lại thất bại dễ dàng đến thế, trong khi Huy còn chưa phải là một cái đích quá cao xa hay khó đạt được: Huy cũng bình thường, chỉ có mỗi năng lực giỏi giang, ngoại hình vừa đạt mức ưa nhìn, chăm chỉ và có nhiều phát kiến khiến mọi người ngạc nhiên. Giác đã sắp trở thành một Tiến sĩ Văn học Việt Nam, trong khi đó Huy đang ở bên Úc, hạnh phúc (Giác nghi ngờ từ này) với một cô gái bản địa ngọt ngào nào đó mà cậu ấy đã thông báo rằng cả hai sẽ kết hôn (không biết là khi nào vì tình hình thế giới hiện tại khiến cho mọi kế hoạch đều trở nên quá mức mông lung), và đồng thời cũng sắp thành Tiến sĩ Triết học ở Úc. Đáng lẽ ra phải bằng nhau chứ nhỉ: cùng một danh hiệu Tiến sĩ. Song, Giác cứ có cảm giác rằng những cuộc chiến của Huy luôn tuyệt vời hơn: nhận học bổng du học, sống ở một đất nước tiên tiến, nghiên cứu sinh khoa Triết học (ôi trời, Triết học cơ đấy!) và sắp có một cuộc hôn nhân mới sau khi đã thất bại với người vợ trước (còn không thể gọi là thất bại, cả hai ly hôn rất hoà bình và cùng nhau chăm sóc con cái, ít nhất đó là điều người ta nhìn thấy từ bên ngoài) còn những cuộc chiến của Giác lại quá tầm thường: học nấu cháo, đọc một mẩu truyện ngắn kỳ quặc, con gái vừa mất không biết có phải con ruột của mình không, không biết trưa nay mình và vợ sẽ ăn gì, cảm động vì một cây dừa kiểng, muốn đập vỡ một chậu cây hình chú heo vàng, hốt hoảng vì tiếng xe máy chạy qua, không biết cà phê do mình pha ngon hay dở, giả vờ như bản thân vẫn khoẻ mạnh. Một cơn choáng váng ập đến, Giác xây xẩm ngồi xuống. Có cách nào để Huy đột ngột xuất hiện trước cửa nhà anh, đạp tung cửa và kéo tay anh đi theo cậu ta lên một chiếc phi cơ cá nhân (đậu ở đâu mới được?) rồi bảo rằng hãy trốn đi, hãy theo cậu ta và sống một cuộc đời điên rồ hơn, với những cuộc chiến xứng tầm và đáng để đánh đổi, với những ước mơ đáng để chinh phục, với một cuộc đời đáng để trải nghiệm, với những món ăn đáng để thưởng thức, và khi kết thúc một ngày, cả hai sẽ lên giường chìm vào những giấc ngủ ngập tràn cảm xúc lâng lâng thoả mãn, sau khi đã làm tình đến kiệt sức, dù từ trước đến nay cả hai chẳng hề yêu quý đối phương (thậm chí đã từng là đối thủ trong một số trường hợp) mà chỉ có mỗi cảm giác cần nhau thuần tuý, không khác gì một chai nước cần một cái nắp chai để trở nên trọn vẹn.
“Ôi trời, nhìn ông thấy ghê quá! Có chuyện gì thế?” Hằng hỏi khi thấy Giác ngồi phịch xuống trước màn hình một cách nặng nhọc, mắt chớp lia lịa để lấy lại tiêu cự.
“Không, không, do vừa rồi đứng lên hơi nhanh thôi!” Giác xua tay với camera, “Hình như là tiếng xe máy thật, hai người nghe gì không, có xe cứu thương…”
Linh đưa tay che miệng, Hằng cũng kêu trời.
“Để tôi lên nhóm chat của tổ dân phố xem!”
Theo yêu cầu của tổ dân phố, mọi thành viên trong nhóm chat đều cần bật chuông báo tin nhắn để cập nhật tin tức mới nhất, nếu không thì họ không chịu trách nhiệm nếu có ai bỏ mất điều gì quan trọng, song Giác vẫn chọn cách tắt thông báo, anh lấy lý do (với bản thân chứ không phải với họ) rằng mình đang cần phải hoàn thành luận án Tiến sĩ và làm ơn hãy bao dung cho người đang phải làm luận án Tiến sĩ. Giác đã thấy tin nhắn thông báo mới nhất.
“Một bác nhà ở gần cuối đường đã mất rồi, xe vừa nãy là để chở bác ấy đi!” Giác nói với Hằng và Linh.
Hai người phụ nữ không biết phải phản ứng thế nào hơn những cái nhăn mặt đầy ái ngại và chia sẻ.
“Ít ra thì còn có xe cứu thương đến đưa đi, tiệt trùng và sạch sẽ, hơn là những chiếc xe thùng.” Giác chỉ có thể nhận xét như thế.
“Phải, phải.” Hằng bắt lấy, “Bây giờ mà có xe cứu thương là hay đấy. Luôn luôn không đủ, luôn luôn quá tải.”
Linh chồm đến, “Những người khác trong nhà đó vẫn ổn chứ, những người xung quanh nữa.”
“Cũng có người bị mắc bệnh nhưng không nặng lắm.”
Nhóm chat của tổ dân phố Giác ở rất thú vị, anh đã nhận được đống cháo gói vẫn còn cất trong kho dự trữ, dùng không hết, chỉ với một tin nhắn xin họ. Chỉ đơn giản như thế, các nhà đã treo trước cổng đủ thứ đồ ăn gửi anh. Giác hứa là nếu có ai cần, mình cũng sẽ đem chia lại. Thật bất ngờ khi người ta lo cho anh đến thế, trong khi bình thường anh chẳng bao giờ chào hỏi khi chạm mặt họ ngoài đường (còn không phân biệt được hàng xóm của mình với người lạ đi ngang khu vực).
Mấy hôm trước, cha mẹ anh có điện đến hỏi tình hình, anh bảo rằng mình vẫn ổn, hàng xóm xung quanh đem cho rất nhiều đồ nên chẳng thiếu thốn lương thực lắm. Mẹ Giác dặn dù là như vậy nhưng cũng phải tiết kiệm, bây giờ nếu hết đồ ăn cũng không thể đi mua được. Trong khi đó, mẹ kể, cha anh lại bỗng nhiên hoang phí và thèm ăn đủ thứ. Có vẻ như cha Giác, như tính cách cố hữu trước nay của ông, chưa từng thử trò chuyện với anh một cách đàng hoàng kể từ ngày anh không sống chung với họ nữa, vẫn cộc cằn và dễ tự ái với những lý do khó hiểu.
Phải không, phụ nữ luôn luôn mệt mỏi với những đam mê của đàn ông? Đàn ông có vẻ như luôn luôn nhận được những lực thúc đẩy để bắt họ, khiến họ, dẫn dắt họ đến chỗ những huân chương, những chiến công, và thế là họ ngốc nghếch, hiếu chiến, táo bạo và khiến phụ nữ suốt mấy nghìn năm lịch sử loài người phải thở dài vì sự liều lĩnh bất cần, ngổ ngáo đến ngớ ngẩn trong những cơn say mê và cảm hứng của họ. Anh muốn hỏi Linh và Hằng nghĩ thế nào về đàn ông – hãy tạm bỏ qua những lý thuyết về bình đẳng Giới, về những ý kiến phản bác hệ đối lập nhị nguyên nam-nữ; hãy tạm đừng quan tâm đến việc liệu bản thân có đang mang định kiến, đang cổ hủ, đang đi ngược lại văn minh, đang cố dán nhãn; cứ nói một cách đầy cảm tính, đầy cá nhân, thành thật với chính mình, với góc nhìn và trải nghiệm của bản thân, đối xử chân thật với cảm xúc bên trong, dù biết chúng sẽ bị phán xét, bị bêu rếu, bị châm biếm, bị trở thành “trường hợp nghiên cứu” của những nhà hoạt động xã hội. Sao chúng ta lại ngại ngần không dám thừa nhận rằng chúng ta đã thất bại trong việc cố giữ bản thân khách quan – như Phật Tổ, như những vị sư thầy đạt đạo – mà rốt cuộc ta chỉ là con người, với những chiến công hết sức tầm thường và luôn nảy ra những đánh giá chủ quan, thiên kiến, vị kỷ?
Và có phải đó là lý do cho sự phản bội của vợ anh: cuộc chiến của Thuỷ dường như cũng ghê gớm và căng sức. Cả hai kết hôn suốt năm năm trời mà không có con, càng lúc Thuỷ càng bị dồn đuổi bởi những câu hỏi khi nào thì mới chịu có con, khi nào thì muốn làm mẹ, khi nào thì muốn thực hiện “thiên chức”, khi nào thì định “sống trọn vẹn cuộc đời của một phụ nữ”. Cả hai đã cố gắng suốt mấy năm nhưng vẫn không đơm hoa kết trái gì, những câu hỏi càng lúc càng lớn. Có phải vì vậy nên Thuỷ đã nhìn thấy khiếm khuyết của anh và nhận ra cả hai sẽ không bao giờ có con được, mà chị vẫn cứ phải tiếp tục trả lời những câu hỏi, của cả bên nhà mẹ đẻ lẫn bên chồng. Dẫn đến việc con bé Nhiên ra đời, như một câu trả lời. Có phải chính anh là người đã đẩy Thuỷ vào con đường ấy? Nếu anh bị vô sinh, không có cách nào có con, vậy thì có cách nào, cách nào ngoài…
Giác rùng hết cả mình, đấy là anh đã sắp trở thành một Tiến sĩ, một tri thức có bằng cấp đáng tự hào, mà còn đôi lúc bị chao đảo trong những trái khoáy của chính cuộc đời mình. Vậy thử hỏi nếu là những người khác – tư tưởng vẫn còn hạn chế, vẫn phải loay hoay với những rắc rối thường ngày – thì còn đến mức nào nữa?
“Bên tụi mình cũng vậy, cách một hai ngày là có một người…” Hằng nói, ngập ngừng, “Nhiều lắm, nhiều lắm, tụi mình còn chưa từng nghĩ khu chung cư mình đang sống lại có nhiều người đến vậy. Cho đến khi nghe tiếng xe cứu thương, tiếng tin nhắn thông báo có ai đó mất trên nhóm chat. Dù biết mình đang sống trong một khu lớn, cũng biết là ở đây rất đông người, như phải đến tận lúc này tụi mình mới hiểu ‘nhiều người’ là thế nào.”
“Thôi nào, chị đừng nói nữa…” Linh huýt nhẹ Hằng, nhắc cô dừng lại.
“Không sao.” Giác dí mặt vào màn hình. “Bây giờ ở đâu cũng thế cả thôi.”
“Được rồi, tụi mình chỉ gọi qua để chắc chắn mọi thứ vẫn ổn thôi.” Linh nói, “Nếu không có gì thì tụi mình tắt trước nhé, nếu có vấn đề là phải báo ngay đấy! Nhớ kỹ, mọi người đều ở bên cạnh nhau, dù bị cách ly nhưng mọi người luôn ở bên cạnh nhau, gần hơn chúng ta nghĩ!”
Có lẽ Linh và Hằng quá trẻ trung, dù cả hai đều bằng độ tuổi của anh và Thuỷ, đầu bốn mươi. Họ đã là những người đàn ông và phụ nữ trung niên. Nhưng Giác cứ bị thuyết phục rằng hai người bạn gái ấy vẫn luôn trẻ trung, dù nếu nhìn rõ vẫn sẽ thấy vô số những dấu hiệu tuổi tác, rải rác đây đó trên mặt và cơ thể họ, và chính họ nữa có lẽ cũng đã có những thay đổi trong suy nghĩ, trong những cách hành xử, cách sống và đối diện với cuộc sống so với hồi đôi mươi. Ấy thế mà họ vẫn quá trẻ. Giác đã là một người đàn ông trung niên, độ tuổi luôn được đồn đại là kinh khủng nhất trong đời một người đàn ông, nhưng anh thấy mình vẫn ổn khi đối diện với nó (thật bất ngờ). Giác nhớ đến cha, khi ông ấy ở độ tuổi bằng anh lúc này: ông bỗng dưng nảy ra đam mê chạy xe đạp mỗi chiều, cùng những người bạn trong hội đạp xe (những người bạn ít ỏi của ông) chạy vòng vòng vài chục cây số và tần suất càng lúc càng nhiều. Giác, ngay từ hồi đó, khi còn là một cậu sinh viên sắp ra trường, đã mơ hồ hiểu được ý nghĩa trong những cuốc chạy xe đường dài ấy: cha đang trải qua độ tuổi trung niên của một người đàn ông, đang cố tìm ra một ý nghĩa nào đó, giữ thăng bằng để không trở thành một lão già ngu ngốc thèm khát hồi xuân một cách tuyệt vọng, nhưng đồng thời cũng không quá tỉnh táo và thông minh để trở thành một lão già cổ hủ gắt gỏng (đa phần là với sự bất lực của chính mình).
⬩⬩⬩
Giác quay lại đọc cho xong truyện ngắn Cáo tật thị chúng. Vậy là anh gần như đã hoàn thành hết mọi nhiệm vụ trong ngày: công việc một ngày của anh chỉ là đọc mỗi cái truyện ngắn ấy. Quá ít trách nhiệm để một người đàn ông có thể sống tiếp. Anh bắt đầu nghĩ bây giờ mình sẽ ăn gì và nấu gì cho vợ. Có lẽ Thuỷ đã dậy, anh có thể nghe những tiếng lục đục khe khẽ vọng xuống từ trên lầu. Giác không bao giờ biết rốt cuộc ngôi nhà của mình được thiết kế bằng cách nào, mà người ở trên lầu làm gì thì người ngồi dưới lầu đều có thể nghe thấy cả, dường như đó là một sự vô tình trong thiết kế không gian khiến cho âm thanh phát ra cứ liên tục vọng qua lại giữa các vách tường. Như một đặc điểm trong kiến trúc của những sân khấu kịch Hy Lạp cổ điển: dù không có micro thì người ở xa sân khấu nhất vẫn có thể nghe giọng của người diễn viên vọng đến rõ mồn một. Cứ như một ngôi nhà không có bí mật, dù nó có.
Thế là Giác lại vào bếp, xem tiếp còn gì để chế biến hay không. Anh luôn cảm thấy hạnh phúc quá mức mỗi lần mở tủ lạnh nhà mình và thấy vẫn còn thứ gì đó ăn được – anh phải thật tình cảm ơn những người hàng xóm tốt bụng đã quyết định chia sẻ – dù ở một số nơi đồ ăn đã khan hiếm đến mức đáng báo động. Giác sẽ chọn những món đơn giản và ít cần nêm nếm, với tình trạng vị giác như lúc này. Thật tai hoạ, Giác không có mấy cơ hội vào bếp tự nấu gì đó, ấy thế mà giờ lại mất vị giác vào lúc anh đang cần nó nhất.
Vẫn còn một đòn pate (ở đâu ra vậy nhỉ?) và hai con khô cá ba sa. Vẫn ổn. Anh có thể nấu cháo cho vợ, dù phải hỏi cho chắc rằng Thuỷ đã ngán cháo hay chưa, và để chị ăn cùng với khô được ướp gia vị nồng đượm cho đỡ lạt lẽo. Còn anh sẽ ăn cơm với pate, dù biết mình sẽ không thể pha ra thứ nước chấm ngon như loại nước chấm Thuỷ thường pha. Anh lấy đòn pate ra, cắt ba khoanh mỏng, sau đó bật bếp để nướng khô. Không tìm thấy vỉ nướng, anh quyết định sẽ chiên khô thay vì nướng. Thậm chí đến mùi hương ngào ngạt của khô cá ba sa cũng không khuấy đảo được khứu giác của anh, dù anh biết mình chỉ mất mỗi vị giác, nhưng có lẽ có một quan hệ nào đó giữa cả hai. Ít ra thì thị giác và thính giác của anh vẫn tốt, anh có thể nhìn thấy miếng khô co quắp trên chảo, với lớp da teo rúm, màu vàng ngon lành ươm chín, lớp dầu nóng bóng bẩy phủ lên những đường gân thịt cá. Thậm chí, mùi hương dù bị thất thoát nhưng đã bắt đầu tìm ra cách để đến được chỗ anh. Anh có thể tưởng tượng được vị của nó, qua sự hỗ trợ của những giác quan khác.
Anh đặt miếng khô chín vàng vào đĩa, miếng khô quá giống cuộc đời anh: hoàn hảo hơn những gì anh đã trông đợi và đặt kỳ vọng. Giác nhìn nó, lớp dầu mỏng vương lại vẫn còn nổ lách tách trên phần da giòn, anh nghĩ vợ mình sẽ thích nó – dù chị có còn vị giác hay không – và suy nghĩ ấy khiến anh hạnh phúc, không đúng, hơn cả hạnh phúc, anh đã thành công. Anh bỗng nhiên có niềm tin rằng luận án Tiến sĩ mình đang thực hiện cũng sẽ đạt được thành công trước Hội đồng như cách anh đã thành công với miếng khô cá ba sa ấy. Đây là cuộc chiến của anh: chiên một con khô. Hoàn toàn tầm thường và hoàn toàn không đáng kể. Anh không thể kể về thành công này với người khác: lần đầu chiên khô và đã tạo ra được một miếng khô hoàn hảo. Quá nhiều chiến công đã không được kể ra, quá nhiều hạnh phúc đã bị giấu đi, chỉ vì chúng quá nhỏ bé, không đáng kể và sẽ không nhận được sự chú tâm tương xứng từ người nghe. Sẽ không ai gọi đây là hạnh phúc, nó quá ít ỏi để gọi là hạnh phúc, quy mô của nó chỉ bằng một cái thở phào nhẹ nhõm vì đã không làm hỏng việc.
Lặp lại các bước đã làm khi sáng, anh nấu một bát cháo cho vợ. Phải đến khi đổ nước sôi vào, Giác mới sực nhận ra mình đã quên lên lầu để hỏi vợ có bị ngán cháo hay không, dù mới hồi nãy anh đã dự định sẽ làm thế. Nhưng gói cháo đã bị xé ra và nước sôi đã được đổ vào, trong tình hình này thì cả hai không được phép phí phạm đồ ăn. Có phải đây chính là lý do cho sự phản bội của Thuỷ không nhỉ: Giác là một người chồng đã không hỏi vợ muốn ăn cháo không trước khi bắt đầu nấu? Song, bây giờ chuyện đã rồi, không có cách nào quay lại được nữa (nếu có thể quay ngược thời gian thì tốt quá; dù nếu đời người chỉ được phép một lần quay ngược thời gian thì anh cũng sẽ dành cơ hội duy nhất đó để quay lại hai phút trước, rồi chạy lên hỏi Thuỷ có muốn ăn cháo hay không, chắc chắn anh sẽ làm thế, không cần phải cân nhắc).
Trong lúc chờ đợi cháo nở (hoặc chờ đợi thế giới này nổ tung), Giác ngồi xuống, hít vào và thở ra, cảm nhận hơi ấm của căn bếp vừa được sử dụng và vẫn đang được sử dụng. Có lẽ miếng khô cá hoàn hảo kia sẽ cứu vãn được mọi thứ, có thể hàn gắn được mối quan hệ vợ chồng của anh và Thuỷ, có thể lấp đầy khoảng trống mà con bé Nhiên để lại. Đột nhiên, Giác cầu nguyện và tin tưởng rằng bằng miếng khô cá ấy, cuộc đời anh sẽ tốt đẹp hơn và thế giới sẽ được cứu rỗi. Sao vận mệnh lại không chiếu cố cho một thế giới có một đĩa khô cá chiên hoàn hảo như thế được kia chứ! Và nó cũng sẽ như Linh (dù việc so sánh cô với một con khô cá vẫn phần nào khiến anh choáng váng), có khả năng trở thành biểu tượng của sự hoàn hảo. Giác đột nhiên nhớ lại ngày hôm ấy anh ở cùng với cô, hai người trong căn bếp nhà của cô và Hằng, Hằng và Thuỷ lúc đó đã đi đâu đó (cửa hàng thực phẩm chăng). Chỉ có anh và Linh, anh biết Linh yêu mình – từng yêu. Dường như trong một khoảnh khắc, mọi trường hợp, mọi khả năng đã có thể xảy ra, Linh đã làm gì đó, mời gọi anh, chào đón anh, ra hiệu cho anh, nhưng anh đã thành công gạt đi, kiềm mình lại. Dù một phần nào đó trong lòng – anh sẽ phải xin tha thứ – Giác cho rằng mình xứng đáng với điều này: ngoại tình với người khác, bởi vì Thuỷ đã ngoại tình và còn có bé Nhiên với một tên đàn ông bí ẩn nào đó anh sẽ không bao giờ biết, vậy thì tại sao anh không trả thù, trả đũa, bà ăn nem ông ăn chả, phản bội ngược lại vợ. Anh xứng đáng với một cuộc trả thù như thế và vào lúc ở trong căn bếp đó, anh đã có thể xuôi theo Linh. Nhưng anh đã không. Ít ra thì đến hôm nay Giác vẫn rất hài lòng về quyết định khi ấy.
Linh vẫn luôn quá hoàn hảo, là một người bạn chí thân chí thiết của anh từ hồi Đại học, cùng lớp Văn chương với anh. Giác đã gặp Linh trước khi gặp Thuỷ, thậm chí anh và Linh đã từng thử tìm hiểu nhau nhưng rốt cuộc lại chẳng đâu vào đâu. Nói chung là vậy, Giác đã lựa chọn đúng và không khiến ai phải khó xử, từ đó về sau Linh đã hoàn toàn buông bỏ được (đúng không?), cuộc sống trở về trạng thái bình thường như nó vốn dĩ, không có những ái ngại, khó xử, xấu hổ nào cả. Nhưng Giác sẽ không quên, rằng anh đã chấp nhận (chấp nhận?) việc vợ mình phản bội và mình thì không chọn trả thù khi có cơ hội mà chọn chịu đựng.
Sực tỉnh, Giác chợt nhận ra mình đang bóc pate ăn vụng. Anh đã ăn hết cả ba khoanh vừa cắt từ lúc nào không hay, cũng chẳng cảm nhận được mùi vị gì nốt, chỉ thấy bụng hơi no no. Giác thở dài, có lẽ nhiêu đó là đã đủ cho bữa trưa với anh, không cần nấu cơm nấu cháo cho phần mình làm gì.
Bình luận
Chưa có bình luận