Mắt


Mắt


Đại Việt. Âm lịch: một ngày cuối tháng 11, Bính Tý, năm thứ 5 (Tống, Thiệu Thánh năm thứ 3) – hoặc biết đâu không phải là ngày này mà là một ngày khác trong lịch sử.

Ánh nắng thật ấm áp, trời sáng đến chói mắt. Sư Bản Tịnh ngẩng đầu nhìn trời qua mái ngói, những cánh chim sáng sớm đã siêng năng kiếm ăn. Càng sống lâu, ông càng có cảm giác mỗi ngày đều lặp lại ngày hôm trước, thế giới này không còn mới mẻ nữa. Ông không biết nên vui hay nên buồn – việc nghiệm ra điều này không biết là đã đạt đạo hay vẫn còn u mê. Tu tập là như vậy, giờ nào khắc nào đều đã có sẵn lịch trình, cứ y mà làm. Vì hoạt động và tu tập theo giờ giấc nghiêm cẩn, Bản Tịnh luôn có cảm giác mỗi ngày đều giống nhau, không có bất kỳ đột biến nào để đánh dấu ngày hôm qua với ngày hôm nay.

Nhưng chẳng phải sự bình yên và an ổn mới là điều mọi người mong muốn hay sao, chẳng phải tu tập là hướng đến sự sâu lắng và thanh đạm hay sao. Nhưng trong lòng Bản Tịnh luôn trộm nghĩ rằng, cuộc đời mỗi người không cần phải nhạt nhẽo đến mức đó.

Ngoài sân có một thầy đang quét lá rụng, đống lá được gom lại, tiếng chổi xể là âm thanh duy nhất trong cảnh thanh tịnh. Mấy hôm trước có hai chú tiểu đùa nghịch trong sân chùa, liền bị các thầy la mắng ngay lập tức, bây giờ bọn chúng đã có ý thức hơn, không chạy giỡn nữa. Ngoài mặt, Bản Tịnh tỏ ra hài lòng, nhưng trong thân tâm, ông cảm giác có điều gì không đúng lắm.

Bản năng của con nít mà nô đùa, chúng có ồn ào nghịch ngợm thì đã sao, ảnh hưởng đến sự thanh tịnh của Giáo Nguyên Tự thì đã sao? Bởi vì chúng là trẻ con và cần phải như thế, tu hành mà gò ép, kìm nén, chế ngự, giam lỏng con người tự nhiên thì liệu có đúng đắn hay không? Nam mô, lẽ ra từng tuổi này, đứng ở vị trí này rồi, Bản Tịnh nên có suy nghĩ thấu đáo hơn, tư tưởng vững vàng hơn mới phải.

Trụ trì Mãn Giác, sư phụ của sư, đã nhiều lần úp mở, một hai lần khẳng định rằng Bản Tịch đã được chọn sẽ là người giữ tâm ấn sao khi sư phụ mất. Vậy Bản Tịnh sẽ là người học trò được chọn để tiếp nối Mãn Giác của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Song, Bản Tịnh cảm thấy mình vẫn chưa thành tựu trong việc tu tập, sư vẫn còn dễ lung lay lắm, dễ rơi vào mơ hồ lắm. Không biết chừng sẽ có người dị nghị cũng nên, họ sẽ nghi ngờ năng lực của Bản Tịnh liệu có bằng thầy mình hay không. Ôi chao, sao mà bằng được, sao có thể như thầy Mãn Giác chứ? Một người như Bản Tịnh, dù nói ra đây không phải đang có ý khiêm nhường dè dặt, thì vẫn còn cách thầy mình rất xa trên hành trình đốn ngộ lắm.

Trong lòng Bản Tịnh vẫn còn nhiều khúc mắc, vẫn còn nhiều câu hỏi, ấy thế mà chưa kịp nhờ thầy giải đáp mà sức khoẻ của Mãn Giác đã sa sút lắm rồi. Nếu sau này đến lượt Bản Tịnh thay thầy, vậy ông còn biết hỏi ai? Ngồi ở vị trí cao là như thế, chỉ có thể truyền đạt và những người dưới sẽ lắng nghe mình răm rắp, chứ khó mà đi hỏi ai được nữa, dù trong lòng mình không phải là đã hết những câu hỏi về cuộc đời. Người ở nơi cao nhất rồi thì còn ai cao hơn để mà dựa dẫm nữa, đó chính là cái đáng buồn của việc ngồi cao. Chẳng hiểu các Đế vương sống như thế nào khi ở trên đó?

Tự nhủ mình phải cố gắng khai thác hết những suy ngẫm của sư phụ trước khi thầy ôm lấy chúng mà viên tịch, phải nhớ hết, hấp thụ hết. Nhưng Bản Tịnh không có cách nào để mà cho hết được. Nay, Mãn Giác đã đến thời điểm có thể về với Đức Phật bất cứ lúc nào thầy muốn, điều đó lại càng khiến Bản Tịnh buồn bã hơn nữa.

Như sự việc của hai chú tiểu mới đến chùa mấy hôm trước, nếu là Mãn Giác, thầy sẽ biết chắc chắn phải làm gì, thầy sẽ không như Bản Tịnh, cứ phân vân lo lắng giữa tự nhiên hay phi tự nhiên. Sư đã thử đặt mình ở chỗ thầy, tự hỏi nếu trong trường hợp đó Mãn Giác sẽ suy nghĩ và quyết định như thế nào? Bản Tịnh cũng đã có câu trả lời: Mãn Giác cũng sẽ đồng ý với việc giáo dục lại hai cậu tiểu kia. Bởi vì ai cũng thừa biết tu là để kìm hãm dục vọng của bản thân, vì dục vọng là thứ khiến ta vui sướng và khổ sở, thường thì khổ sở nhiều hơn, nên tốt nhất là cần diệt trừ hết dục vọng để hướng đến sự an lạc trong cuộc sống. Nhưng, xin Đức Phật từ bi hãy bỏ quá cho, Bản Tịnh nghĩ, không biết việc ra sức kìm nén bản tính tự nhiên của con người có phải là cách giải quyết hay không, dục vọng có phải là thứ cần phải diệt trừ hoàn toàn hay không?

Tại sao con người không thể chỉ đơn giản là con người, với chính bản thân mình, với những hạnh phúc và khổ đau kiếp người, với những vấn đề không thể giải quyết, không thể hoà giải, không thể xác định là hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai?

Để giờ đây, khung cảnh trong ngoài im ắng, lặng lẽ đến mức nghe được tiếng lá rơi, là thứ đáng mừng đáng vui hay sao? Riêng Bản Tịnh, thầy chỉ cảm thấy một nỗi nhàm chán khó gọi là buồn hay vui.

Gió đông vẫn còn thổi dù mùa xuân đã lấp ló trên những cành hoa, không khí se lạnh, nếu khung cảnh có ảm đạm u uất đôi chút thì có lẽ là điều dễ hiểu, không liên quan gì đến việc mọi người im lặng quá mức. Có lẽ lạnh quá nên mọi người cũng lười nói chuyện. Bản Tịnh khoác thêm áo bông bên ngoài áo tràng, đi sang phòng của sư phụ.

Bản Tịnh gõ cửa, chẳng nghe tiếng động gì. Chẳng lẽ giờ này sư Mãn Giác vẫn chưa thức? Lo lắng, Bản Tịnh khẽ đẩy cửa, cửa không khoá, vậy thì ngó vào xem chút cũng không sao. Dạn dĩ hơn, sư đẩy cửa và bước vào trong. Mãn Giác không có trong phòng, giường ngủ trống không, chăn nệm được gấp lại thẳng thớm, gọn gàng. Bàn viết cũng chẳng có ai cả, trên bàn chỉ có mỗi tờ giấy viết bài kệ “Cáo tật thị chúng” mà thầy vừa sáng tác mấy ngày trước, do chính Bản Tịnh đứng cạnh hầu mực cho.

Thật lạ, dù mắt đã yếu lắm rồi, tay đã run lắm rồi, nhưng chữ của Mãn Giác vẫn thẳng thớm, thậm chí còn thẳng thớm hơn chính Bản Tịnh. Chữ nào chữ nấy gọn ghẽ, mướt mắt, không phải kiểu chữ rồng bay phượng múa đẹp như tranh vẽ, mà là kiểu thuận mắt, đâu ra đó, như một hàng người được cắt đặt đúng quy cũ.

Song, Bản Tịnh hơi hãi cái tên của bài kệ ấy, “Cáo tật thị chúng”, nghe qua cứ đầy điềm gở thế nào. Dù nỗi sợ này có hơi ngớ ngẩn, Mãn Giác chắc chắn sẽ không chịu cách suy nghĩ ấy, hay có khi do chính thầy muốn đặt tên như vậy, thầy chẳng quan tâm gì đến gở hay không gở. Thầy đặt một cái tên để chứng minh rằng bản thân không tránh né chuyện bệnh tật hay chết chóc. Tất cả đều là bình thường. Tuy nhiên, Bản Tịnh thì rất hãi, bởi vì Mãn Giác chết thì Mãn Giác không sợ là đúng, nhưng Bản Tịnh là người sống tiếp sau khi Mãn Giác chết, thế nên Bản Tịnh có nhiều lý do để sợ cái chết của sư phụ. Bản Tịnh không sợ gì cái chết của mình và sư tin rằng chẳng ai sợ chết cả, họ chỉ sợ khi người bên cạnh mình chết, hoặc mình chết khi vẫn còn nhiều vướng bận với trần tục. Nếu chỉ chết thôi thì đâu có gì phải sợ!

Một con bọ rùa bò ngang trang giấy, như một chiếc xe bò được kéo qua đường lớn. Chấm màu đo đỏ di chuyển, nó có hơi bối rối mỗi khi đi từ vùng màu đen của chữ sang phần màu trắng của giấy rồi lại đi tiếp sang vùng màu đen. Sư Bản Tịnh quan sát con bọ. Mùa xuân đang đến gần, hoa cỏ và côn trùng đã bắt đầu xuất hiện. Màu sắc đã quay trở về trên trang giấy chỉ có màu trắng và đen.

Ít nhất không nhìn thấy Mãn Tịnh trong phòng còn đỡ hơn là cái viễn cảnh tồi tệ kia. Bản Tịnh xoay ra ngoài, đóng cửa lại. Sư cần biết thầy mình bây giờ đang ở đâu. Có thể đi lại được chứng tỏ Mãn Giác đã khoẻ hơn những hôm gần đây rất nhiều. Dù chẳng biết đó là may hay rủi…

Mấy hôm trước khi nhìn sư Mãn Giác trầm ngâm trước tờ giấy trắng, nhẩm đi nhẩm lại từng câu thơ trong miệng, như muốn thật chắc chắn từng từ từng chữ mình chọn đều đang cố nói lên thứ mình muốn nói. Người làm thơ luôn sợ từ ngữ của mình sẽ bị đẩy đến một vùng đất khác, gây nên những hiểu lầm không đáng có, để rồi bị ai đó gán ghép cho một ý tưởng khác hẳn ban đầu. Vì thế Mãn Giác chưa động bút vội, vẫn còn phải nghĩ nhiều. Thật kỳ lạ, sư phụ nghĩ ra câu cuối cùng trước rồi bắt đầu nghĩ năm câu còn lại. Mãn Giác bảo rằng mình muốn viết về một bông hoa mai nở khi tất cả mọi thứ ngỡ như đã tàn lụi, đó sẽ là hình ảnh cuối cùng của bài, song còn năm câu trước vẫn cần phải suy tư thêm.

Để rồi thầy thong thả nghĩ, đến khi viết ra, Bản Tịnh len lén đọc lại (tại sao sư lại phải len lén nhỉ, chẳng phải cứ đọc bình thường cũng không có vấn đề gì hay sao, Mãn Giác để sư đứng đó hầu mực cho mình thì chứng tỏ thầy cũng đã cho ông được phép xem và biết mình đang viết gì, thậm chí có lẽ Mãn Giác còn ngầm cho phép Bản Tịnh góp ý nếu thích, nhưng chuyện xảy ra như vậy đấy, Bản Tịnh chỉ len lén đọc, bằng những cái liếc khẽ khàng, giấu giếm như một kẻ lén lút ngắm những hình ảnh mình không được phép ngắm). Ông giật mình vì nội dung của bài kệ ấy, khi chúng đã hoàn chỉnh trên trang giấy. Tất nhiên ông còn giật mình hơn khi Mãn Giác đề tên bài kệ là “Cáo tật thị chúng”.

Đêm trước đó, sư Mãn Giác đã để cửa mở, gió đêm lạnh lẽo lùa vào khiến hôm sau sư bị ốm một trận thừa sống thiếu chết. Sư Bản Tịnh túc trực bên thầy, may mắn là đến đầu giờ chiều thì Mãn Giác dần lấy lại sức sống, ăn chút cháo. Còn hơn cả ngày thường, thầy bắt đầu làm kệ. Mãn Giác rất ít khi sáng tác, thầy vẫn luôn cho rằng tu đạo không cần phải trình bày dài dòng, mà phải càng ít chữ càng tốt. Lời ít nhưng ý nhiều mới là chân lý cần được truyền thụ. Trong đời thầy, thầy chưa thấy ai nói nhiều mà làm nên chuyện. Vì thế Mãn Giác cũng không học đòi sáng tác kinh kệ làm gì dù có người lân la khuyên thầy nên tận dụng lúc còn trẻ khoẻ để viết ra tất cả những điều mình chiêm nghiệm và đúc rút trên con đường hành đạo. Bên trong mỗi người đều ẩn chứa một cuốn sách, mỗi người đều là một pho sách đầy tri thức, Mãn Giác tất nhiên lại càng là một pho sách hiếm có. Nếu không để lại lời nào, nhỡ một mai có điều gì bất trắc, thì chẳng phải uổng phí cái pho sách ấy lắm sao?

Chính Bản Tịnh là người phải chịu cái sự uổng phí ấy đây.

Bản Tịnh đến nhà bếp, hỏi dì bếp có nhìn thấy sư Mãn Giác đâu không. Dì bếp đang hấp một hàng xửng bánh bao, khói bốc nghi ngút. Bước vào căn bếp thơm mùi củi lửa ấm hực cả người, Bản Tịnh lưu luyến không muốn đi ra ngoài trời đông giá rét tí nào.

“Ơ hay, chẳng phải trụ trì luôn ở trong phòng mình à?” Dì bếp hỏi ngược lại Bản Tịnh, chứng tỏ dì cũng không rõ. Chính dì cũng giống như Bản Tịnh, tưởng đâu Mãn Giác đang ở trong phòng mình, chìm trong chăn ấm chưa dậy.

“Thầy không ở trong phòng.” Bản Tịnh tiến đến hàng xửng hấp, mùi củi thơm lừng, tiếng cũi nổ tí tách tràn đầy cảm giác nhân gian, giống như một ngôi nhà của dân quê hơn là một ngôi chùa. Tiếng củi nổ làm Bản Tịnh ngậm ngùi nhớ đến gia đình khi xưa, nay đã khuất nẻo xa xăm chẳng thể tìm lại được. Ôi, sao mấy hôm nay sư lại yếu đuối thế này?

Thằng nhóc phụ bếp chùi tay vào một cái khăn rách tướp, ngước khuôn mặt sẹo rỗ do trận cháy rạ năm ngoái lên, nói xen:

“Hồi tờ mờ sáng con thấy sư Mãn Giác ra vườn sau, con hỏi trụ trì định đi đâu nhưng sư không trả lời, chỉ im lặng mà đi. Con chạy đến để dìu thầy, vì biết mắt thầy đã kém lắm rồi, vấp bậc vấp đá thì phải tội! Nhưng thầy bảo mình tự đi được, con không cần lo cho thầy. Kỳ lạ thật, bình thường trụ trì có đi vững vàng đến thế đâu.”

Dì bếp hỏi lại, “Mày không bị quáng gà nhìn nhầm đấy chứ?”

“Mắt con còn tốt chứ đâu có già lão gì mà nhìn nhầm, với lại còn nghe cả tiếng trụ trì trả lời rõ mồn một, mắt thấy tai nghe thế thì sai làm sao được.” Thằng bé nheo nhéo luôn mồn, Bản Tịnh nghe mà buồn cười như ai đang cù tai mình. Ít ra trong nhà có tiếng trẻ con thế này thì đời vẫn còn đẹp.

“Được rồi, tôi hiểu rồi, để tôi ra vườn xem sao.” Lẽ ra Bản Tịnh không được phép quên nơi đó, nếu sư Mãn Giác có đi đâu thì khả năng cao Mãn Giác sẽ đi ra vườn sau, nghĩa là khi nãy lúc ông ở trong phòng sư phụ, ông đã có thể mở ngay cửa sổ bên giường ngủ là nhìn thấy thầy. Thế mà Bản Tịnh lại không nghĩ đến, phải vòng qua bếp mới được mách cho.

Ông nhấc nắp một cái xửng lên, những cái bánh bao nở căng phồng, bên ngoài láng mướt như da thịt em bé. Nam mô a di đà Phật, ai lại đi ví đồ ăn với em bé, chẳng khác nào một tích xưa ông từng nghe, về chuyện một nhà sư không dám ăn nhân sâm vì trông hình dáng củ nhân sâm y hệt một em bé, dẫu biết đó là loại nhân sâm tiên dược giúp tăng đạo hạnh, tăng tuổi thọ thêm trăm năm. Bởi vì không phải vấn đề nằm ở củ nhân sâm là đứa trẻ thật hay đứa trẻ giả, mà vấn đề là từ giả đến thật chỉ cách nhau một sợi tóc, từ thật đến giả cũng chỉ cách nhau một sợi tóc. Nhìn thấy vật giống trẻ sơ sinh mà bỏ vào miệng không ngượng thì sẽ tập thành thói, sẽ làm cùn nhụt nhân tính bên trong mình đi, và từ giả đến thật chỉ cách nhau một sợi tóc.

“Sao hai người lại hấp nhiều thế này? Chùa đâu có bao nhiêu miệng ăn.” Sư hỏi, quả thật là có hơi nhiều, mỗi người ăn ba cái vẫn còn dư.

“Con được dặn là hôm nay chùa có khách.” Dì bếp trả lời, như thế thắc mắc chẳng lẽ Bản Tịnh không biết gì hay sao.

“Ơ hay, sao tôi không được cho biết gì nhỉ? Thảo nào hôm nay không khí xung quanh cứ nghiêm chỉnh thế nào, làm tôi thấy không quen.” Bản Tịnh cố nhớ xem mình có lỡ quên mất điều gì không, nếu có cuộc tiếp đón khách quý, mà còn nhiều như thế, thì chính ông phải là người biết rõ nhất chứ. Chùa này nếu có khách thì ông chính là người phải đứng ra tiếp đón chứ ai! Nhưng ông chẳng nhớ gì, từ lúc thức giấc đến giờ ông vẫn luôn giữ tâm thế hôm nay sẽ là một ngày bình thường, không xáo động.

“Có thể trụ trì chưa nói với thầy chăng?” Thằng bếp lại xen vào, cổ nó hơi rướn tới trước, dì bếp phải huýt để nhắc nó im lặng.

“Sư trụ trì à? Vậy là ý định của sư phụ rồi.” Bản Tịnh hiểu ra và thở dài. Thế đấy, có lẽ là một ý thích nhất thời của thầy. Bản Tịnh vẫn chưa được thông báo gì, có lẽ vì thầy thừa biết người học trò của mình sẽ tỏ thái độ cho xem. Bản Tịnh đồng ý là có đôi lúc mình hà khắc với tính tình sớm nắng chiều mưa của Mãn Giác quá. Nhưng đó là bởi vì hồi trẻ sư phụ đâu có thế, chỉ đến già mới đâm ra lẩn thẩn, làm Bản Tịch cứ thấy bất an, bèn muốn chăm lo kỹ hơn một chút thôi.

Bản Tịnh đậy nắp xửng lại, chào hai người họ rồi trở ra, đi đến vườn hoa. Vừa bước ra ngoài, cái lạnh đã ùa đến ngay, khiến ông phải xuýt xoa, cảm giác ấm áp trong căn bếp đó đúng là thứ ma lực níu kéo quá mạnh mẽ, làm Bản Tịnh chùn chân lưu luyến, dù biết đối với bậc tu hành thì điều đó là không nên.


Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout
}