“... apparently God is forgiving”
“… dường như Chúa đang tha thứ”
– Arisa Kumagai.
Mở đầu
Bản Tịnh nắm lấy tay thầy. Thật khó tin cơ thể kia đã từng có một thời cường tráng, dẻo dai, đầy những thớ thịt rắn chắc. Thật khó tin một người từng khoẻ mạnh đáng ngưỡng mộ, nay lại có thể héo hon đến mức này. Sư ngẩng lên nhìn bức tranh được ông Phàm vẽ cho Mãn Giác, lẽ ra Bản Tịnh phải tìm cách để thuyết phục ông Phàm vẽ lại dung mạo lúc thầy khoẻ mạnh và cường tráng nhất, chứ không phải lúc đã già cỗi nhăn nheo hết cả. Dù vậy, Phàm vẫn là một danh hoạ nổi tiếng trong Kinh, được vua vời vào cung làm việc, ông ta vẽ không xấu, thậm chí tác phẩm còn có vài phần đẹp hơn người thật, nghệ thuật thì phải thế, nó kể những câu chuyện tuyệt vời hơn sự thật đôi chút, chỉ đôi chút thôi nhưng cái “đôi chút” đó lại cực kỳ quan trọng.
Trong tranh, sư Mãn Giác ngồi toạ thiền, khuôn mặt điềm tĩnh và thông tuệ, như người biết hết mọi thiên cơ trên đời – dù tất nhiên không phải. Thầy ngồi đó, sáng rực, nước da hồng hào và đầy đặn, tay trái đặt hờ lên đùi, tay phải đưa lên giữa ngực và thong thả lần tràng hạt. Bức tranh thật tuyệt vời, vừa gần gũi mà cũng vừa xa xôi, nếu nói gần thì không khác gì một ông cụ nhà bên, nếu nói xa thì không khác gì một vị Phật sống đang hạ giới phổ độ chúng sinh. Khuôn mặt nhiều nếp nhăn, lông mày dài, mi mắt nặng trĩu trùng xuống tạo ra một đôi mắt nhỏ như sợ chỉ. Đầu cạo trọc, không râu, mặc áo tràng đỏ.
Phải nói thế nào nhỉ? Khi nhìn bức tranh, Bản Tịnh như đang thấy một người thật quen mà cũng thật lạ. Điều ấy là không thể tránh khỏi. Làm sao một người trên tranh, hình hài phẳng dẹt, ít màu sắc, có thể sinh động được như ngoài đời? Nó làm cho Bản Tịnh nghĩ, ra là người đời sau sẽ nhớ đến thầy mình như thế này, sẽ trông thấy thầy như thế này: một hình ảnh vừa là thật nhưng cũng vừa không phải thật. Họ sẽ đóng đinh hình ảnh sư Mãn Giác là một cụ già minh triết, thông tuệ. Họ sẽ mãi mãi nhớ đến thầy trong tư thế toạ thiền, tu hành, điềm tĩnh. Họ sẽ không bao giờ biết đến một Mãn Giác của cuộc đời, như một con người đang sống với mọi xúc cảm rất con người. Ta cứ nghĩ phải tấn phong một người lên thành hình tượng hoàn hảo không thể bị vẩn đục hay nhuốm màu thế tục thì mới là tôn vinh con người, mới là nhân văn nhân đạo. Nhưng sư Bản Tịnh lại nghĩ khác, trân trọng con người phải nằm ở việc chấp nhận họ là con người, một con người rất “người”, với tất cả những đặc tính hình thành nên họ, cả khi họ hoàn hảo hay chưa hoàn hảo cho lắm.
Người nằm trên giường từ từ mở mắt, cử động khe khẽ. Bản Tịnh chồm tới, nhìn thầy. Sư Mãn Giác thở nhẹ, rồi nói:
“Ta muốn làm một bài kệ. Con mài mực cho ta đi!”
Một bài kệ. Bản Tịnh suy nghĩ, phải, có lẽ không lúc nào phù hợp hơn lúc này. Đấy sẽ là một bài kệ thật đặc biệt, nói về những điều thật đặc biệt. Hoặc có lẽ không phải, có lẽ thầy, với tính cách của thầy, sẽ viết về những điều bình thường.
“Thầy, cứ ăn trước đã. Ăn một chút sẽ có sức ngồi vào bàn viết!” Bản Tịnh vỗ nhẹ lên hai bàn tay chắp lại trên bụng của người đang nằm, cảm thấy bản thân thật phù hợp với công việc quán xuyến.
Mãn Giác gật đầu, “Vậy cũng được.”
Bản Tịnh đến bếp, bảo người đem cho thầy một bát cháo trắng. Khi quay lại, sư đã thấy thầy ngồi dậy trên giường. Dù hồi tờ mờ sáng, cơ thể gầy gò ấy vẫn còn nóng hực, nhưng đến bây giờ, sau khi đã ngủ mê man một giấc, sư Mãn Giác lại trông thật khoẻ mạnh, hồng hào đỏ đắn làm sao. Người như không còn cảm thấy tuổi già nữa, mà ngược lại sức khoẻ đã quay về với cơ thể gầy gò suy nhược ấy. Có lẽ cũng nhờ công Bản Tịnh ra sức chăm sóc không ngơi tay.
Thầy nói với ông, “Đêm hôm qua, đang nằm ngủ thì thầy bị tiếng hoa mai bung cánh đánh thức, thầy mở cửa sổ, thấy đúng thật là cây mai ngoài sân đã nở rồi.”
“Và thầy quên đóng cửa, nên sáng nay đã phát sốt một trận!” Bản Tịnh thở dài. Ngỡ đâu nhìn thấy mai nở sẽ làm tinh thần con người sảng khoái, nhưng rốt cuộc lại thêm bệnh. Nhưng nếu sư Mãn Giác còn có thể nghe được tiếng hoa mai bung cánh, nghĩa là thầy còn thính nhạy hơn cả ông, có khi còn thính hơn tất cả mọi người, đây cứ xem là dấu hiệu đáng mừng đi vậy. Hoặc có thể tuổi già nó thế, tuổi già khiến những âm thanh nhỏ bị khuếch đại và những âm thanh lớn bị tan loãng đi.
“Một bài kệ ngắn thôi, nói nhiều lại thành dở mất.”
“Tôn chỉ là thế.”
“Con chẳng học được gì!”
“Con xin lỗi.” Bản Tịnh không muốn câu chuyện này bị kéo quá lê thê, ông đặt bát cháo xuống bản, thổi nguội và đút cho thầy.
“Được rồi, thầy tự ăn được. Con đến bàn chuẩn bị giấy bút đi!”
“Lỡ thầy có mệnh hệ gì, mọi người biết phải làm sao, còn ai có thể thông tuệ được bằng thầy?” Vừa đi đến chỗ tủ đựng đồ lề thư pháp, Bản Tịnh nói.
“Chẳng phải là có con rồi sao? Đừng bảo là thầy dồn hết tâm sức và thời gian để nuôi dạy con, bây giờ con lại muốn từ chối tâm ấn đấy nhé!”
“Con chỉ thấy tiếc…” Bản Tịnh mở hai cửa tủ, bên trong đầy những con bọ rùa nho nhỏ, trông như những hạt đậu đỏ biết bò. Sư giật mình, lùi lại. “A di đà Phật… Thầy ơi, sao trong tủ đầy bọ thế này?”
“Vì không muốn mọi người tiếc nên ta mới cần viết một bài kệ… Mà bọ gì cơ?”
“Hình như là bọ rùa thầy ạ.” Bản Tịnh giấy giấy bút và thỏi mực mới ra, đúng là bọ rùa.
“Chắc là đẹp lắm…”
Bản Tịnh bật cười, nhìn những viên tròn tròn, đo đỏ đen đen, di chuyển lộn xộn. Đúng là so với bọn mối, mọt, ruồi, nhặng, thì bọ rùa vẫn tốt hơn.
⬩⬩⬩
Phòng tổng biên tập của tạp chí Nam Phong. Những chồng giấy. Một người thanh niên ngồi chết lặng.
Trước mặt anh, trên bàn, đang có bốn văn bản xếp thành hàng ngang – dù là trong phòng tổng biên tập đi chăng nữa, một lúc xuất hiện cả bốn văn bản quan trọng thế này là quá nhiều. Tất nhiên trên bàn vẫn còn những thứ khác, nhưng hãy tập trung vào bốn thứ này: một bản kết quả khám sức khoẻ, một lá thư viết tay, một phong bì bản thảo với địa chỉ gửi đi là tên một salon nghệ thuật trong nội thành, một bản viết tay kết quả thẩm định của biên tập viên phụ trách mục “Truyện ngắn”. Theo kết quả thẩm định, bản thảo này vẫn chưa đủ tốt, tác giả lại không đề bất kỳ thông tin cá nhân nào để toà soạn liên hệ yêu cầu chỉnh sửa, theo quy tắc thì nó sẽ bị loại thẳng. Nhưng biên tập viên, vì nhiều lý do mà chủ yếu là tính khí đồng bóng, đã ghé qua gửi nó cho tổng biên tập, bảo anh hãy đọc thử xem.
Vấn đề của bốn văn bản này là gì? Lá thư tay là mở đầu và kết quả khám sức khoẻ là kết thúc, bản thảo là mở đầu và bản thẩm định là kết thúc. Còn gì nữa? Tất cả đều liên quan đến bệnh tật – điều này có lẽ là do chính tổng biên tập Mãn quá nhạy cảm nên mới để ý, hơn là bản chất của bốn thứ ấy. Ngồi đối diện bên kia bàn là cậu biên tập điều hành mục truyện ngắn, vì có hai bên má cứ hóp vào mặc cho cân nặng cũng không thua kém anh hùng kẻ sĩ nào, nên thường được thương mến gọi là cậu Hóp, nhỏ hơn Mãn hai tuổi, lật lật tập hồ sơ trên tay. Giọng của Hóp cứ bị thứ gì đó đánh dạt đi trước khi đến được tai Mãn, đôi tai bị hỏng hóc nặng nề của Mãn, song anh vẫn cố lắng nghe và phán đoán xem cậu ấy đang nói gì. Đa phần những đoạn hội thoại trong ngày đều do Mãn phán đoán chứ không nghe ra được toàn bộ trăm phần trăm. Đôi tai của anh thật yếu ớt làm sao.
“Anh Mãn đọc thử truyện ngắn này xem anh đánh giá nó như thế nào?” Cậu ta nói, như thể chính cậu là cấp trên còn anh mới là cấp dưới. Nhưng tính Hóp đã như thế từ trước đến nay, thật lòng Mãn còn quý cái tạng tài tử hồn nhiên ấy, miễn sao được việc là ổn.
“Toa đã viết trong bản thẩm định là bản thảo này không đủ tốt còn gì? Toa lật đật ôm nó chạy sang bên đây. Moa cứ tưởng toa sẽ kêu moa đọc một bản thảo đủ hay và có gì đó thú vị. Chứ hàng đã không qua được thẩm định thì cần gì? Hay toa còn phân vân?”
Moa moa toa toa đau cả đầu. Mãn xưng hô một lát thôi là đủ khiến cậu nhân viên trẻ loạn hết lên chẳng biết ai moa ai toa nữa. Hóp trộm nghĩ sao Mãn không xưng hô anh em chú tớ cho lành, học đòi xưng hô kiểu ấy làm gì, có thể do người học trường do tụi Phờ-răng-xê mở ra thì nó phải vậy.
“Vâng, lẽ ra không cần đưa anh đọc.” Hóp đóng tập tài liệu lại, “Nhưng tác phẩm này kỳ quặc lắm. Như anh thấy, nó được gọi là truyện ngắn nhưng không hề ngắn tí nào!”
“Phải.” Mãn kéo cái phong bì về phía mình, niêm phong đã được xé từ trước, anh lôi tập bản thảo ra, nhìn số trang và ước lượng, “Nhiêu đây chắc khoảng hơn vạn chữ chứ không ít. Truyện ngắn gì mà lại viết cả vạn chữ thế này, làm sao mà in?”
Các tờ tạp chí như Nam Phong chỉ nhận truyện ngắn với số chữ cố định, bởi vì họ chỉ cần phủ hết một mặt hoặc hai mặt báo bằng một truyện ngắn, dài hơn nữa thì làm sao có thể gọi là “truyện ngắn đăng báo”. Có lẽ, dung lượng chính là vấn đề lớn nhất mà cậu Hóp điền vào phần lý do từ chối. Nhưng nếu chỉ vì dung lượng lớn mà từ chối thì lại đáng tiếc nếu đây là một tác phẩm hay, bởi vì vấn đề này có thể điều chỉnh được. Tuy vậy, Hóp vẫn tiếp tục lắc đầu:
“Không chỉ vấn đề về dung lượng, nó còn dính vấn đề lịch sử. Nội dung truyện này viết về một nhân vật có thật, là Mãn Giác thiền sư.” Cậu nhân viên chồm lên, chỉ tay vào dòng tiêu đề truyện.
“Cáo tật thị chúng à?” Mãn đọc tên truyện, đúng là Mãn Giác thiền sư rồi, cũng là bài kệ nổi tiếng nhất của ông, thậm chí đó còn là tác phẩm nổi tiếng hàng đầu trong giai đoạn văn học thời Lý-Trần. “Dùng hẳn tên tác phẩm của người khác thế này cũng là một thách thức đấy nhỉ!” Đoạn, anh ngẩng lên, “Vậy nó dính vấn đề lịch sử gì thế, sai lệch kiến thức?”
“Vâng.” Hóp gật đầu, “Em đã tra cứu và nhận ra, nếu dựa vào năm sinh của sư Bản Tịnh và năm mất của sư Mãn Giác, thì hai người họ không thể gặp được nhau, chưa kể còn trong khung cảnh như thế kia nữa chứ: Bản Tịnh không thể chăm nom sức khoẻ Mãn Giác trong những ngày cuối đời của thầy, lại còn mài mực cho sư phụ mình viết kệ.”
“Hai người đó không thể gặp nhau? Nhưng họ là thầy trò mà!” Mãn tròn mắt, làm sao một thầy một trò lại chưa từng gặp nhau được. Anh chưa thử tìm hiểu về mảng này đủ sâu để nhận ra vấn đề đối phương đang nói.
“Đến đây lại tiếp tục xuất hiện câu hỏi giống như anh thắc mắc. Ai cũng biết Bản Tịnh là học trò của Mãn Giác, sao có chuyện người này lại mất trước khi người kia ra đời được?” Hóp nói tiếp, khuôn mặt tỏ vẻ nghiêm trọng, “Em đi tìm thêm về mối quan hệ của hai người họ, có tài liệu bảo là Bản Tịnh đã theo Mãn Giác học tập một thời gian, rồi khi Mãn Giác viên tịch thì đã trao tâm ấn cho Bản Tịch.”
“Làm sao các nguồn thông tin lại mâu thuẫn với nhau hết vậy nhỉ! Vậy rốt cuộc hai người họ có gặp được nhau không, thông tin nào là sai?”
Nếu Mãn Giác mất trước khi Bản Tịch ra đời, thì thông tin họ là thầy trò sẽ bị sai. Còn nếu Bản Tịch quả thật có đi làm đồ đệ của Mãn Giác, thì thông tin năm sinh năm mất của có hai người họ sẽ là điểm bị sai. Vấn đề là cái nào sai cái nào đúng trong hai trường hợp ấy?
“Em không biết.” Hóp nhún vai.
Mãn bĩu môi chưng hửng, lật lật qua các trang bản thảo. Những dòng chữ xoắn xít đầy trên giấy. Có vẻ tác giả này có phong cách thích viết những câu dài và đoạn dài. Anh hỏi:
“Còn nếu đơn giản là tác giả không muốn viết đúng thì sao, lằn ranh giữa sự thật và hư cấu trong tác phẩm nghệ thuật rất mong manh. Liệu việc kể sai sự thật là lựa chọn có ý thức của tác giả thì sao, để phục vụ cho mục đích tự thân của tác phẩm?” Anh ngẩng lên, nhướn mày.
Người đối diện cũng đã thử nghĩ theo hướng này, đầu cậu ta lắc lắc, “Em nghĩ là điểm sai này bị vi phạm một cách có ý thức đấy anh, anh cứ đọc hết cả truyện là sẽ hiểu. Nhưng ta sẽ không bao giờ biết được tác giả đã suy tính những gì, vì tên đấy không đề bất kỳ thông tin liên lạc nào trong bản thảo và thậm chí ngoài phong bì cũng chỉ có những thông tin quá chung chung, rõ ràng cố tình không muốn để lộ danh tính. Giờ vấn đề chỉ là đăng hay không đăng. Và theo em, em chọn không duyệt đăng nó.”
Mãn không có ý kiến, anh tin vào năng lực của Hóp, và Nam Phong không phải là thiếu sự lựa chọn, có rất nhiều bản thảo bị loại để một bản thảo được đăng, sự chọn lọc nội dung kỹ lưỡng là chìa khoá để một ấn phẩm xuất bản có thể đạt được thành công. Việc từ chối một truyện ngắn cũng chẳng có gì to tát. Đặc biệt với trường hợp không tên tuổi, hơi vượt dung lượng và còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ như thứ đang ở trên tay anh đây, thì bị từ chối cũng không bất ngờ cho lắm. Chưa buồn tập trung vào các trang giấy, Mẫn đặt nó lại xuống bàn, cất tiếng tiếp tục:
“Vậy rốt cuộc toa muốn moa làm gì với thứ này?”
“Trước tiên, anh cứ đọc hết đi đã.” Hóp vươn người, nhắc lại yêu cầu.
Nhìn đôi mắt toé lửa cậu nhân viên do chính mình cất nhắc và bồi dưỡng sát sao, Mãn không hiểu vì lý do gì mà cái bản thảo kia lại khiến cậu ta hừng hực tinh thần như vậy.
⬩⬩⬩
Người trên màn hình cuộc họp cứ liến thoắng dù vẫn chưa mở micro, Giác phải bật micro của mình lên để nhắc cậu ấy:
“Em chưa bật micro kìa!”
Cậu sinh viên loay hoay, cuối cùng cũng phát ra tiếng được.
“Em xin lỗi, em quên mất.”
“Thế có chuyện gì à?”
“Vâng, thầy ơi, em tìm thấy một tài liệu này! Kỳ quái lắm! Thầy biết em kiếm ra nó từ đâu không, trên thư viện online của một ngôi chùa dưới quê em.” Chất giọng dê, hơi méo mó vì đường truyền kém, vang lên.
Cậu sinh viên trên màn hình tuy vẫn còn ở lứa tuổi trẻ trung đáng ngưỡng mộ, nhưng gương mặt đã có chút xuống sắc, cằm lún phún râu ria chưa cạo. Hình ảnh một nhà nghiên cứu điển hình.
Đây chính là anh hồi ở tuổi đó chăng? Giác cũng là một sinh viên say mê sách vở đến mức không thiết gì chuyện chăm chút bản thân: đeo một cái kính dày cộp không hợp với khuôn mặt, lúc nào cũng quần tây áo sơ mi, đầu tóc gọn gàng cơ bản, không có tí nào là phong cách cá nhân và dấu ấn bản thân – hoặc có thể xem “mọt sách” là một phong cách cá nhân cũng được. Sao không sống đi nhỉ? Sao còn trẻ như thế mà đã đâm đầu vào sách vở và khoa học, ngồi một chỗ đọc sách suy tư đến lúc cận-đục-trĩ, trong khi đó thế giới ngoài kia đáng tận hưởng biết bao, đáng sống biết bao? Hay Giác đã nhầm, rằng đây cũng là một kiểu sống, chỉ là chính anh đang bị đóng khung trong một kiểu “đáng sống” do xã hội quy định. Chỉ có bản thân mới biết chính mình có đang hạnh phúc hay không và anh nghĩ mình không nên áp đặt quan niệm hạnh phúc của mình lên người khác. Nhìn cậu sinh viên này, tuy buồn cười, nhưng ai dám khẳng định là cậu đang không hạnh phúc? Hay chính anh, anh mới là người…
“Để em gửi nó qua mail cho thầy nhé!”
“Được được, để thầy xem thử. Mà này, đầu tiên là thầy bất ngờ khi có một ngôi chùa ở tỉnh ngoài xây dựng cả hệ thống thư viện để chia sẻ tài liệu miễn phí, thứ hai là em còn tiếp cận được nó, thứ ba là nó lại chứa tài liệu liên quan đến tạp chí Nam Phong mà chưa từng có ai phát hiện ra.” Giác chia sẻ niềm bất ngờ quá mức kỳ quặc của mình, anh đã bỏ qua bao nhiêu thế giới, bao nhiêu cuộc đời nhỉ?
“Như tuyên ngôn của chúng ta: Làm nghiên cứu là đi moi móc!” Cậu sinh viên đáp vô cùng tự tin, dù trên màn hình chỉ hiện mỗi cái đầu dí sát vào camera.
“Phải, làm nghiên cứu là đi moi móc.” Giác gật gù, lặp lại.
Đây chính là tuyên ngôn của anh, tất nhiên phần nhiều là để đùa. Anh là một người sắp trở thành Tiến sĩ, nghiên cứu chuyên ngành Xã hội học Văn học, với đối tượng cụ thể là tạp chí Nam Phong, nên việc “moi móc tài liệu” đã trở thành kỹ năng. Nếu không đào ra những nguồn tài liệu cực hiếm, hoặc đi vào những xó xỉnh chẳng ai biết đến, chắc chắn sẽ không thể nghiên cứu được bao quát một tiến trình của quá khứ. Chúng ta hiểu về quá khứ bao nhiêu chứ, tất cả chỉ nằm hạn hẹp trong những nguồn tài liệu có thể tiếp cận được, nhưng biết đâu vẫn còn rất nhiều hiện tượng khác, đang nằm ẩn mình trong thư viện của một ngôi chùa hẻo lánh, mà nếu internet không ra đời thì mãi mãi cũng không ai biết. Chính anh, một chuyên gia nghiên cứu về đối tượng này (chuyên gia gì chứ?), còn không thể ngờ được mình có thể tìm thấy thứ gì trong ngôi chùa ấy.
Từ đó mới thấy nghiên cứu cũng cần rất nhiều duyên phận, để một tài liệu có thể đến tay mình là một chặng đường cực kỳ khó khăn. Có những thứ vẫn đang chờ đợi ngoài kia, đang nằm yên một chỗ, phủ bụi, mong được đến ngày hội ngộ với anh. Anh khao khát được bước ra ngoài kia, đến những nơi mình chưa từng đến. Nhưng trong giai đoạn này, dù chồn chân đến mức nào, điều đó cũng không thể làm được.
“Thầy nhận được chưa ạ?” Cậu học sinh lại hỏi.
Thấy tài khoản mail hiện thông báo nhận tin, Giác nhấn vào và gật đầu, “Thầy nhận được rồi, là một truyện ngắn à?”
“Vâng, một truyện ngắn đã được mang đi in, dàn trang, xếp chữ và thiết kế đầy đủ, nhưng không bao giờ được đăng. Ít nhất là không xuất hiện trong 210 số tạp chí chúng ta biết!”
“Sao nó lại lưu lạc được đến một ngôi chùa vậy nhỉ?”
“Ban đầu thấy nó, em còn bán tín bán nghi. Nhưng thầy cứ đọc thử rồi sẽ biết ạ.” Sinh viên gật đầu chắc nịch.
“Thầy cảm ơn em nhé!”
Giác mỉm cười, mở file lên xem. Đúng là một bản scan đầy đủ trang báo y hệt phong cách của Nam Phong, chỉ là nó chưa từng được phát hành chính thức mà thôi. Sao lại có thứ này tồn tại trên đời nhỉ? Việc nó xuất hiện làm Giác nghi ngờ về mọi kiến thức và kết luận mình biết, và nếu đây là một truyện ngắn đủ đặc sắc, nó sẽ có sức đánh đổ toàn bộ những nghiên cứu văn chương từ trước đến nay về giai đoạn văn học những năm 1932. À không, làm gì có chuyện đấy! Nếu nó bị loại thì chứng tỏ nó không đạt tiêu chuẩn để mang đi in, nó không đủ tốt.
Khi tiếp xúc với những nguồn tài liệu kiểu này một thời gian dài, Giác bắt đầu có cảm giác mình đã thành ra mê mẩn chúng: chất giấy ố vàng, mực in không đều và phong cách trình bày cổ điển. Nhìn chúng làm anh thoả mãn thị giác và dễ tập trung hơn. Anh lướt nhanh qua. Đây là một tác phẩm khá kỳ lạ, điểm kỳ lạ đầu tiên là nó không hề có bút danh hay tên của tác giả, Giác sẽ lưu ý điểm này để kiểm tra thử là do nguyên bản đã vậy hay là do lỗi in ấn. Điểm kỳ lạ thứ hai là số trang để in hết cả truyện này có hơi vượt mức, chứng tỏ nó là một truyện ngắn không phù hợp với dung lượng thông thường của các truyện ngắn trên Nam Phong.
Anh xem qua tiêu đề, thì ra đây là lý do vì sao những trang báo này lại bị lưu lạc vào thư viện của một ngôi chùa. Truyện ngắn ấy có tên: Cáo tật thị chúng.
“Vâng, không có gì ạ.” Cậu học trò trả lời, cũng mỉm cười, đôi mắt như phát sáng phía sau tròng kính dày, “Chia sẻ tài liệu phải trở thành một điều bắt buộc. Chúng ta đều là những người đi tìm tri thức cả mà!”
Bình luận
Chưa có bình luận