CHƯƠNG 23: Người Đi Nhón Gót



Gia đình Trần Minh Quang đã ròng rã trên đường được hơn mười ngày trời, đi qua biết bao nhiêu thành trấn, làng mạc, thấy qua biết bao nhiêu ruộng đồng bát ngát, cũng có núi non hiểm trở, nơi thâm sơn cùng cốc hay biển lớn miên man.

 Chỉ có điều duy nhất không đổi chính là bên cửa sổ xe ngựa được phủ một tấm rèm xanh nhạt sẽ luôn có hai thân ảnh nằm tựa đầu ngẩn ngơ nhìn ra ngoài.


 Ngọc Vân khẽ ngáp sau đó duỗi người một cái, tận hưởng từng cơn gió nhẹ vuốt qua sườn mặt, nắng chiều soi tới đáy mắt nàng hiện lên một màu nâu nhẹ long lanh như chứa nước.


 Bé mèo tam thể nằm bên cạnh cũng uể oải meo một tiếng, sau đó ngoắc miệng ngáp to, thân thể lười biếng nằm phục xuống đất xem chừng buồn ngủ lắm. Dù như vậy nhưng nó cũng không chịu đi ngủ, mắt mèo vẫn thao láo mở to dính chặt vào cảnh đẹp ngoài kia, như là dán keo vậy, gỡ mãi cũng không ra.


 Kinh thành càng lúc càng gần, dọc đường những thành trấn lớn cũng càng ngày càng nhiều.


 Đúng ba ngày sau, đoàn người cũng đã đến được huyện Thanh Giang thuộc phủ Trường Yên. Địa phương này vốn được biết đến với danh xưng ‘xưởng may của Thụy Quang’, là nơi sản sinh ra nhiều làng nghề dệt vải lâu đời với những loại vải nổi tiếng không chỉ trong phạm vi cả nước mà còn rất được các nước láng giềng săn đón. 


 Đoàn người vừa vào đến cổng thành đã nghe thấy tiếng kinh hô từ phía trước, nghe như là giọng của một người đàn ông.


 Còn chưa đợi Trần Minh Quang phải tìm kiếm xung quanh nơi phát ra âm thanh. Cách đó không xa, một nhóm người đã nhanh chóng chạy lại chỗ này.


 Người đến là một người đàn ông trung niên, trông chừng có vẻ cũng trạc tuổi với Trần Minh Quang, sau ông còn có mấy người thanh niên cao to.


 Vừa thấy người tới là ai, Trần Minh Quang cũng nhanh chóng bước xuống ngựa, vui vẻ chào hỏi:


 “Thành Nguyên, ông bạn, đã lâu không gặp!”


 Người đàn ông kia cũng vừa lúc chạy đến nơi, không nói không rằng đã vồ tới ôm chặt Trần Minh Quang, phấn khích đáp lời:


 “Minh Quang nhiều năm không gặp rồi. Dạo này vẫn tốt chứ?”


 “Vẫn khỏe, vẫn còn có thể làm việc được. Còn ông thì sao? Xương cốt chưa rụng cái nào chứ?”


 Người đàn ông tên là Thành Nguyên như vậy thì cười lên khoái trá, huých nhẹ vào vai Trần Minh Quang như thể muốn trả thù.


 Mà phía bên này, người làm cũng đã dìu phu nhân cùng hai vị tiểu thư xuống kiệu. Hoàng Lan dẫn theo Ngọc Vân cùng Ngọc Thủy đi về hướng chồng mình, tươi cười chào hỏi:


 “Đặng đại nhân đã lâu không gặp.”


 “Trần phu nhân, đã lâu không gặp. Trông phu nhân chẳng thay đổi gì cả, vẫn xinh đẹp rạng rỡ như xưa.”


 “Đây chẳng phải là Ngọc Thủy sao? Đã lớn như vậy rồi?! Nhớ lần cuối ta gặp cháu, cháu chỉ mới cao tới chừng này thôi.”


 Đặng Thành Nguyên vừa nói vừa khua tay múa chân diễn tả, từ điệu bộ có thể thấy tinh thần của ông ta đang rất tốt.


 Nói một đoạn, tầm mắt ông ta bất chợt va phải thân ảnh của Trần Ngọc Vân. Dung nhan xinh đẹp của cô bé khiến ông ta bị khựng lại một lúc, phải một lát sau mới hồi thần.


 “Đây…đây đừng nói là…cô con gái lớn của nhà ông nhé Trần Minh Quang?”


 “Ừm, đây là Ngọc Vân, bấy lâu bởi vì sức khỏe không tốt nên không dám cho con bé ra ngoài. Ngọc Vân, đây là bác Nguyên, là bạn của cha. Con chào bác một tiếng đi.”


 Ngọc Vân nghe thế cũng nhẹ nhàng đáp lại:


 “Dạ, cháu chào bác Nguyên ạ.”


 “Ừ, bác chào cháu.”


 Đặng Thành Nguyên cũng vui vẻ đáp lời, hồi lâu sau vẫn nhịn không được mà nói:


 “Quang, tôi không tin ông vì bệnh tật nên mới dấu con gái lớn trong nhà đâu. Xem chừng là do cô con gái lớn nhà ông xinh đẹp như vậy, ông sợ bị mấy thằng quỷ con trong làng cướp mất đúng không, nên mới giấu nhẹm con bé trong nhà.”


 Trần Minh Quang nghe vậy thì dùng cùi chỏ huých nhẹ vào lưng ông bạn mình một cái.


 “Điên khùng, ông không nhớ có đoạn thời gian tôi còn nhờ ông liên hệ với danh y trong phủ này sao, còn có thể giả được à.”


 Đoàn người vừa nói vừa đi về phía trước, theo sự dẫn đường của Đặng Thành Nguyên.


 Hoàng Lan dẫn hai cô con gái mình đi theo sau, trên đường đi bà không quên giải thích cho Ngọc Vân về lai lịch của người đàn ông này.


 “Ngọc Vân, bác Nguyên chính là người tạo ra loại vải Hồn Hoa đó.”


 Một lời này trực tiếp khiến cho Ngọc Vân sửng sốt.


 Có thể nhiều người cũng như nàng, không biết người đàn ông tên Đặng Thành Nguyên này là ai. Nhưng chắc chắn rằng ai cũng sẽ biết  đến một kiệt tác cả đời này của ông ta. 


 Mềm mỏng hơn lụa, mịn màng hơn nhung. Màu sắc tươi tắn, rực rỡ tựa trăm hoa. Hương thơm thanh ngát, trong trẻo, dù có bị vùi xuống bùn lầy cũng không át được. Đó là lý do vì sao nó được gọi là vải Hồn Hoa.


 Loại vải này chỉ mới xuất hiện trên thị trường chưa đầy mười năm, thế nhưng với những đặc tính độc đáo của nó, cái tên Hồn Hoa này nhanh chóng truyền đi khắp cả nước, biến Đặng Thành Nguyên từ một tên thứ dân nghèo rớt mồng tơi trở thành một phú thương giàu nứt đố đổ vách.


 Có một thời điểm loại vải Hồn Hoa này còn được ví ngang với vải Nguyệt Tằm vốn luôn được biết đến là bảo vật chốn nhân gian. Bởi thế có thể thấy sức hấp dẫn của loại vải này như thế nào.


 Đáng tiếc quy trình dệt được Hồn Hoa rất phức tạp, phải trải qua rất nhiều công đoạn, tốn nhiều thời gian, bởi thế mỗi năm khá lắm cũng chỉ cho ra ước chừng được hai trăm cuộn, luôn trong tình trạng khan hiếm trầm trọng.


Nhiều người thấy thế thì tới hỏi han, tình nguyện bỏ ra ngàn lượng vàng để học được phương pháp dệt vải. 


 Đối với những chuyện này Đặng Thành Nguyên trước sau như một tỏ rõ quan điểm mình, Hồn Hoa chính là sinh mệnh của ông, trừ phi cuối đời ông chết mới truyền lại cho hậu thế, còn không dù có giết ông, ông cũng sẽ mang theo phương pháp này xuống dưới đáy mồ.


 Cây cao thì gió càng lay, đạo lý này ông bà dạy quả không sai. Nhìn thấy Đặng Thành Nguyên một mình độc chiếm phương pháp dệt vải Hồn Hoa, tiền tài địa vị như diều gặp gió, một số làng nghề dệt vải trong vùng đã không chịu được nữa, bắt đầu bắt tay với nhau để cô lập Đặng Thành Nguyên, ép ông ta giao ra phương pháp dệt vải.


 Còn về chuyện họ có thành công hay không thì không biết, bởi sau từng ấy năm chỉ thấy danh tiếng của Hồn Hoa càng ngày càng tăng lên. Các loại vải truyền thống tuy vẫn có chỗ đứng trong thị trường, thế nhưng tình hình kinh doanh cũng ảm đạm đi phần nào.


 Đường phố đông đúc, tấp nập người qua lại. Ở hai bên đường dựng kín những sạp hàng nhỏ, đa số đều là bán vải. Vừa nhìn thấy Đặng Thành Nguyên, bọn con buôn liền liếc ngang liếc dọc, ánh mắt như dao cau được mài bén nhọn.


 Đây là phố buôn vải nổi tiếng ở huyện Thanh Giang, khách đến đây mua đa số đều là nhóm lái buôn mua đi bán lại. Cách con phố này không xa là nơi tập trung các làng vải cổ truyền trong vùng.


 Càng đi sâu vào trong, ai nấy cũng đều nhăn mặt. Trong không khí ngập tràn một mùi hương hăng hắc, ngai ngái khó tả. Tuy không quá khó ngửi nhưng chắc chắn là mùi hương này cũng không thơm một chút nào.


 Đặng Thành Nguyên lúc này mới chợt nhớ ra, vội quay sang bảo:


 “Ngọc Vân, Ngọc thủy, hai cháu mau lấy khăn tay bịt mũi lại, loại khí này hít nhiều không tốt đâu. Đặc biệt là đối với cháu đấy Ngọc Vân.”


 Ngọc Thủy nhanh chóng lấy khăn che mũi lại, để cho chắc ăn thì con bé còn che luôn cả miệng mình. Giọng nói con nít pha đầy sự tò mò, thông qua một lớp khăn tay mà hỏi:


 “Bác Nguyên ơi, đây là mùi gì vậy ạ? Hôi quá đi!”


 Đặng Thành Nguyên lớn lên trong bầu không khí này từ nhỏ nên luyện mãi thành quen, thản nhiên đáp:


 “Vải muốn đẹp cần phải nhuộm màu, thế nhưng màu nhuộm vải lại rất khó làm. Để vải sau khi nhuộm xong có thể tươi màu, bền đẹp, người ta thường dùng đến các loại nguyên liệu đặc biệt để đảm bảo được chất lượng màu. Nhẹ nhàng thì là dịch được chiết xuất từ các loại rễ cây, củ, quả,…nặng hơn một chút thì xác của một số loài côn trùng được phơi khô sau đó nghiền thành bột mịn. Cũng có một số loại màu đặc biệt cần dùng tới các bộ phận liên quan đến xương cốt, nội tạng của các loài động vật cỡ lớn.”


 Chỉ vừa nói đến đây, Ngọc Thủy đã không nhịn được muốn nôn khang. Thế nhưng Đặng Thành Nguyên dường như đã lạc vào trong một thế giới của riêng ông ta, thế giới của vải vóc, là thế giới tuổi thơ và cũng là cả tuổi trẻ của ông. Ông ta tiếp tục thao thao bất tuyệt kể về nghề dệt:


 “Bởi vì được nhuộm lên từ những loại nguyên liệu như vậy nên vải sau khi nhuộm xong, phơi khô thường có mùi rất khó ngửi. Bởi thế nên người ta có thêm công đoạn ướp hương cho vải. Loại hương được dùng thường có mùi rất nồng. Nhiều tầng hương liệu quyện vào với nhau như vậy khiến cho không khí ở đây lúc nào cũng khó ngửi như vậy đấy.”


 Đoàn người nhanh chóng đi khỏi chỗ này, mãi đến khi đi ra gần đến vùng ngoại thành, mùi hương kia mới dần dần nhạt đi, tuy vậy vẫn chưa dứt hẳn. 


 “Nào, đi qua cây cầu này thôi là đến được nhà tôi rồi.”


 Đặng Thành Nguyên đi trước dẫn đường, đưa họ đi qua một cây cầu gỗ lớn bắc ngang qua sông.


 Trần Ngọc vân ngó thử xuống dưới, chỉ thấy lòng sông đen ngòm, đôi lúc còn có một mảng bọt lớn trắng xóa chảy ngang qua, bốc lên một mùi hôi giống như xác chết động vật đã lâu ngày không xử lý.


 Nàng vội vàng đưa khăn lụa lên bịt mũi, có chút khó hiểu mà hỏi:


 “Bác Nguyên cho cháu hỏi, dòng sông này tên gì ạ? Vải lại cớ vì sao mà nước dưới sông lại đen đục thế này?”


 “Không giấu gì cháu, dòng sông này là sông Thanh Giang, cũng là tên của huyện này đấy. Sở dĩ có chữ ‘Thanh’ là vì dòng sông này lúc nào cũng có một màu xanh ngát mát mắt. Bất kể là mùa đông hay xuân, ngày nắng hay ngày mưa, dòng Thanh Giang lúc nào cũng chỉ duy nhất một màu lục lam trong trẻo.”


 Nói đến dây hai mắt ông ta long lanh, dường như nhớ đến một kỷ niệm đẹp nào đó, thế nhưng ngay lát sau đó liền cụp mắt xuống, giọng cũng buồn đi mà kể tiếp:


 “Mấy năm trở lại đây, vì muốn dùng ưu thế về số lượng để cạnh tranh, ép giá vải Hồn Hoa, các làng dệt lân cận bắt đầu sản xuất nhiều vải hơn. Màu nhuộm dư thừa đều bị đổ hết xuống sông, dần dần khiến dòng Thanh Giang trở thành như này.”


 Mọi người đều che mũi, gắng gượng đi qua hết cây cầu này. Vừa bước xuống cầu, một mùi hương thoang thoảng nhanh chóng át đi loại mùi hôi khó chịu kia.


 Tựa như một cánh đồng hoa bạt ngàn đang nở rộ trước mắt, trăm ngàn loại hoa đua nhau tỏa hương thơm ngát, có loại ngọt ngào trong trẻo, có loại tươi mát thanh khiết, cũng có loại nồng đậm quyến rũ.


 Từng nốt hương hòa quyện vào nhau tạo lên một bản nhạc nhanh chậm đan xen, đưa tâm trí người ta vào một chuyến hành trình đa dạng với những cảm xúc lẫn lộn.


 Mọi người không hẹn mà cùng hít sâu vào một hơi, cố gắng bắt lấy thật nhiều hương hoa nhất có thể, tâm tình ai nấy cũng trở nên tốt hơn.


 “Nào, chào mừng mọi người đến nhà của tôi, đến với xưởng dệt Hồn Hoa.”


 Nằm biệt lập với khu dân cư, nhà lớn họ Đặng được chia thành hai khu chính: khu dùng để mọi người trong nhà sinh hoạt và khu dệt vải. Nhìn thoáng ra phía xa kia, ngay sát bìa rừng còn có thể thấy những tấm vải nhiều màu sắc đang đung đưa trên sào phơi.


 Đoàn người theo sự chỉ dẫn của Đặng Thành Nguyên đi sâu vào trong, thế nhưng vừa tới cửa lớn, ai nấy cũng nhanh chóng đứng khựng lại.


 Chỉ thấy trước cửa lớn đang cắm một cây cờ tang, đèn lồng được treo hai bên cũng là loại đèn lồng trắng.


 “Thành Nguyên, đây là…”


 Trần Minh Quang lập tức nhìn qua ông bạn của mình, còn chưa hỏi xong đã nghe người kia cười nói:


 “À, xem chừng là mấy đứa người làm trong nhà chưa dọn kỹ đây mà.”


 Vừa nói xong, ông ta đã lập tức hô to:


 “Người đâu?! Mau sửa sang lại cổng trước, tại sao còn để cờ tang và đèn lồng trắng thế này?”


 Nói dứt lời, ông ta lại quay sang nhìn Trần Minh Quang, có hơi ngượng ngùng mà nói:


 “Xin lỗi ông nha, mời gia đình ông đến chơi mà trong nhà lại chẳng chuẩn bị chu đáo gì cả.”


 Thế nhưng Trần Minh Quang lại nào quan tâm đến những chuyện này. Thứ ông để tâm là tại sao trước nhà bạn mình lại cắm một cây cờ tang thôi.


 Đặng Thành Nguyên nghe ông hỏi, cũng thành thật mà kể lại:


 “Ba ngày trước, mẹ tôi đột ngột lên cơn co giật rồi qua đời.”


 Vừa nghe đến đây, ai nấy cũng đều bất ngờ. Trần Minh Quang tuy có kinh ngạc nhưng lại không lấy làm lạ mấy, cụ bà năm nay đã bảy mươi tuổi, cũng đã được tính là thọ rồi, chết già cũng là chuyện đương nhiên.


 Ông cũng muốn an ủi bạn của mình, nhưng lời còn chưa kịp nói ra đã bị Đằng Thành Nguyên cắt ngang:


 “Tôi vốn cũng đã chuẩn bị tinh thần từ sớm. Ấy vậy mà tối đó, trong lúc đang canh quan tài, tôi nghe thấy tiếng ‘lục cục’ như có người dùng tay gõ vào ván gỗ từ bên trong quan tài. Tôi áp tai vào nghe, thế mà thật sự nghe tiếng mẹ tôi thều thào gọi tên mình ở bên trong.”


 Cả đoàn người ai nghe cũng rợn da gà. Thậm chí Ngọc Thủy cùng Sen đều trốn vào phía sau lưng của Ngọc Vân, không dám nhìn vào gian nhà bên trong nữa. Thế nhưng, Đặng Thành Nguyên vẫn dùng một cái giọng điệu chầm chậm, đều đều mà kể lại:


 “Quang, mẹ tôi sống lại rồi.”


 Trần Minh Quang nghe xong, thần sắc có hơi nghiêm trọng mà hỏi tiếp:


 “Ông đã mời thầy về xem chưa. Ông cũng biết mà, có nhiều người chết rồi sống dậy, nhưng phần lớn trong số họ đều không thực sự sống lại, mà là…một thứ khác.”


 Đối với nghi vấn này của bạn mình, Đặng Thành Nguyên trả lời chắc nịch:


 “Tất nhiên có mời, ông thầy pháp trong vùng bảo mẹ tôi không sao hết. Thế nhưng lại có một lão ăn mày, không biết từ nơi nào đến, dám làm khùng làm điên trước cổng nhà tôi, bảo mẹ tôi sống dậy rồi cũng sống không nổi thêm một ngày.”


 “Một lão ăn mày sao?”


 Nhắc tới người này làm Đặng Thành Nguyên có chút bực bội.


 “Ừ, một ông già ăn mặc rách rưới từ nơi khác đến, suốt ngày nói lời trên trời. Tôi thì lúc đầu vẫn bán tính bán nghi, nên mới không cho dọn dẹp linh đường. Thế nhưng đến hôm nay đã là ngày thứ ba rồi, bà cụ càng ngày càng khỏe mạnh, còn ông già kia không biết đã bỏ trốn đi đâu.”


 “Mà thôi không nhắc đến những chuyện buồn bực đó nữa. Nào mọi người vào đi. Tôi đã sắp xếp người làm chuẩn bị tiệc hết rồi. Đặc biệt là ông đó Quang, tôi vừa mua được một bình rượu quý hai mươi lăm năm. Tôi với ông cùng làm vài chén.”


 Mọi người cuối cùng cũng bước vào bên trong. Sàn nhà một màu nâu sẫm, được lót bằng gỗ quý trăm năm nên khi đi lên không tránh khỏi sẽ phát ra tiếng ‘cọt kẹt’ khó chịu.


 Thế nhưng Đặng Thành Nguyên lại rất thoải mái với điều này, theo ý ông làm vậy sẽ dễ phát hiện ra có trộm đột nhập vào nhà lúc nửa đêm hơn.


 Rượu quá mười chung, nhận thấy Ngọc Thủy đã bắt đầu buồn ngủ, Đặng Thành Nguyên liền sai người dẫn hai chị em nhà họ Trần về phòng nghỉ ngơi.


 Nhà chính họ Đặng nằm ở hướng Đông Nam lại được xây khá thoáng đãng để đón được ánh mặt trời nhiều nhất có thể. Bây giờ cũng chỉ mới vào đầu giờ trưa, nhiệt độ ngoài trời nóng rực, thế nhưng không hiểu vì lý do gì, Ngọc Thủy lại chỉ cảm thấy lạnh căm căm.


 Cảm giác bất an chạy dọc sống lưng cô bé, hai bàn tay nhỏ nắm chặt tay chị mình, đôi mắt nhỏ hoang mang dáo dác nhìn xung quanh.


 Ngọc Vân cũng nhạy cảm phát hiện, từ khi bước chân vào nơi đây, luôn có một ánh mắt cứ dõi theo nhất cử nhất động của nàng từ xa .


 Có lẽ vì đã tới trưa, người làm đa số đều đã đi ăn hết, nên dọc đường đi hai chị em hoàn toàn không nhìn thấy ai cả. Cả hành lang vắng tanh không một tiếng động, chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng ‘cót két’ của sàn gỗ.


 Đột nhiên Ngọc Vân cảm thấy đôi tay nhỏ của Ngọc Thủy đột nhiên siết chặt lấy tay mình, ngay sau đó là tiếng hét thất thanh của cô bé.


 Quản gia nhanh chóng cúi xuống hỏi cô bé làm sao, thế nhưng chỉ nhận lại được được tiếng nức nở sợ hãi.


 Mãi đến khi nghe được tiếng chị mình hỏi, Ngọc Thủy mới lấy hết can đảm giơ tay chỉ về một phía, hai mắt vẫn nhắm chặt, không dám nhìn thẳng.


 Một ngôi nhà lớn, tách biệt hẳn với nhà chính lấp ló sau những rặng trúc xanh mướt mắt, cao vút qua đầu người. Đấy chính là nhà của lão phu nhân, người vừa mới trở về từ cõi chết.


 Căn nhà im lìm đóng kín, chỉ hé mở duy nhất một khung cửa sổ quay về hướng này. Mà ở giữa khung cửa đó chính là một bà lão già nua đang nhìn chằm chằm vào bọn họ.


 Mái tóc trắng ngần xõa tung, làn da đen sạm khô ráp đến lộ cả xương ra. Hai mắt cụ bà đỏ quạnh như máu, mở to thao láo nhìn họ, ánh nhìn tham lam như thể muốn nhào lên ăn tươi nuốt sống bọn người trước mặt ngay tại đây vậy.


 Ngay cả lão quản gia đã lớn tuổi, nhìn đủ sự đời vô tình bắt gặp cảnh này cũng phải giật mình, chả trách Ngọc Thủy lại sợ hãi đến như vậy.


 Nhịn xuống cơn ớn lạnh sau gáy, ông cúi xuống, chất giọng run run mà an ủi Ngọc Thủy:


 “Trần nhị tiểu thư, đừng sợ mà. Đây là lão phu nhân nhà chúng tôi, là mẹ của Đặng đại nhân.”


 Tuy nói thế nhưng Ngọc Thủy vẫn không ngừng khóc được, quay đầu ôm lấy chân váy chị mình, úp mặt vào đó.


 Lão quản gia nói xong, lại quay về trước cúi đầu về phía bà lão kia, hỏi to:


 “Lão phu nhân có sai bảo gì ạ?”


 Nghe tiếng người hỏi mình, cụ bà vẫn không có phản ứng gì, hồi lâu sau mới từ từ quay mặt vào phía trong phòng, chỉ là động tác cứng ngắc, như là một con rối gỗ vậy.


 Lão quản gia thấy vậy cũng thôi, mau chóng dẫn hai chị em nhà họ Trần về phòng. Lúc đi qua khúc ngoặt hành lang, Ngọc Vân có ngoái đầu lại nhìn căn nhà ở phía Tây kia.


 Chỉ thấy qua khung cửa sổ mở toang, cụ bà vẫn giữ nguyên một tư thế như lúc nãy, đứng sững một mình trong căn phòng trống.


 Lúc này, bầy chó bị xích trong sân vườn, nhìn thấy có người lạ liền sủa lên inh ỏi khiến Ngọc Vân có chút phân tâm. Lúc nàng quay lại thì thấy bà lão ấy đã đi sâu vào trong góc nhà. 


 Bóng tối trong căn phòng như nuốt lấy thân ảnh già nua ấy, nó chỉ cho nàng thấy mờ mờ một dáng hình xiêu vẹo lắc lư vẫn đang chầm chậm di chuyển.


 Khi nàng đưa đôi mắt nhìn xuống phía dưới thì mới kinh ngạc phát hiện, bà lão ấy thế mà lại chỉ duy chuyển bằng nửa bàn chân trước, phần gót chân trong lúc đi bộ vẫn luôn được nhón lên cao.
 
 
 
 
 


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout