Tìm Cánh Thiên Di


 

 

Truyện ngắn: Tìm Cánh Thiên Di
Tác giả: Rừng Na-uy

Tôi đã bay cùng nàng dọc hải ngạn suốt nhiều ngày, không phải đi tìm chốn tận cùng thế giới mà để di cư. Sắc trời ánh vào mắt nàng tưởng như chấm sáng tồn vong khi người ta nhìn lên từ đáy giếng. Một cái giếng khô, tựa ống khói của căn nhà dưới lòng đất. Dù vậy, tôi vẫn thích giếng nước hơn. Tôi thích nước, muốn đổ mồ hôi như loài người, để tôi được tắm năm lần một ngày. Tất cả chúng ta đều sinh ra từ nước. Tôi ngắm đường bay ngọt xớt khi nàng lướt qua những hơi mây, đâm vào đàn gió mùa đông, cách nàng vỗ cánh, bộ lông mịn màu nâu điểm xuyết nhiều viền đen cùng hương ẩm cơn mưa âm ỉ, mọi thứ về nàng luôn cuốn hút tôi. Từ khi gắn bó, chúng tôi chẳng còn thấy đồng loại nữa, tất cả đã biến mất trong một đêm giao mùa, không rõ tung tích.

Cái đêm tôi nếm ánh trăng vị ngọt trên từng nhánh lá, dưới tán cây rừng thơm mùi đất và gỗ nguyên sinh. Nàng hẳn là con chim cuối cùng di cư, vì thế đã gãy cánh khi băng qua một cơn bão trắng và cật lực đáp xuống cạnh tổ tôi. Nàng ướt sũng song cơ thể rất ấm, lông trụi sạch, lớp da hồng mong manh, cánh trái gần như đứt lìa, cánh phải mềm oặt. Tôi tha nàng vào tổ, đắp vỏ cây lên thân và thần ra một lúc, trầm ngâm nhìn sinh thể yếu ớt kia, nom giống thứ vừa chui ra từ tử cung. Thế là tôi quyết định làm một việc trọng đại.

“Anh chưa bao giờ làm việc này, hy vọng em sẽ thoải mái,” tôi nói.

Tôi giật đứt cánh trái của nàng đi, tháo chiếc cánh của mình lắp cho nàng. Thời khắc một thứ gì đó rỉ ra trong tâm hồn tôi, không máu cũng chẳng phải nước, chỉ là dòng chảy thôi.

“Có đau nữa không?”

“Không,” nàng đáp. “Vậy còn cánh của anh?”

“Nó sẽ mau mọc lại thôi,” tôi nói, nhìn mảng khuyết trên cánh trái của mình, thứ bộ phận đang thuộc về cơ thể nàng. “Cứ ở đây đến khi bình phục hoàn toàn.”

“Cảm giác thực lạ, có phải bây giờ anh là một phần của em rồi?” Nàng hỏi.

“Hình như thế. Em không phiền chứ?”

“Không. Nhưng giờ anh đang là em, và cũng là chính anh, vậy anh… thực sự là ai?”

Tôi thực sự là ai à? Không trả lời.

“Từ giờ anh là một bộ phận của em, nếu chưa biết mình là ai, em sẽ định danh cho anh nhé?”

“Được,” tôi đáp.

Sáng hôm sau, kết thúc chuyến di cư, hai mùa cách nhau một màn đêm. Ánh nắng rực rỡ đổ xuống ngập cánh rừng, gió đìu hiu thổi những tán lá, thoáng ngửi được mây trời và mùi tình yêu trên đầu. Nhưng vắng tiếng chim, không còn đồng loại nào cất lên bản hợp xướng ban mai ấy nữa, tôi sẽ hoàn toàn đơn độc nếu nàng không xuất hiện đêm qua. Và từ đó bố mẹ tôi biến mất, cả đàn một đi không trở lại. Cái thời buổi chỉ còn một cánh mà tôi lại say mê kiếm ăn lạ lùng, và cũng say mê tổ ấm của mình hơn bao giờ hết, vừa muốn đi thực lâu, vừa muốn mau được về. Tất nhiên săn mồi bằng một cánh bất tiện hơn nhiều, tôi phải tập nghiêng thân khi bay và định hướng trở nên khó khăn. Đến mức khi cánh trái mọc ra thì tôi lại mất thêm một khoảng nữa để tập bay như ngày trước. Cả hai chung sống nhiều tháng đặng chờ đôi cánh nàng lành lặn và bộ lông mọc trở lại, chiếc cánh trái hoàn toàn của riêng nàng, không phải tôi. Nhưng tôi vẫn khao khát có một bộ phận của nàng. Giờ đây những mạch huyết bên trong đã nối kết chủ thể, dù lông đã mọc dày nhưng “vết khâu” vẫn trần trụi, để lộ phần thịt ấm hồng. Tôi trông thấy một con muỗi đậu xuống vùng trần trụi ấy và đốt nàng. Khi nó hút máu xong, tôi đập chết nó. Chợt nhận ra vệt máu trên xác muỗi chính là máu nàng, muỗi cũng là loài chim bị lưu đày! Ôi, tôi thầm mong giấc ngàn thu cho con muỗi vừa chết, và cũng cầu nguyện cho tất cả muỗi trên đời.

Sau đó gần một năm từ ngày nàng sà vào đời tôi, dù mọi con chim thế gian đều bay biến tôi cũng không thấy cô đơn, chỉ cần nàng ở bên bầu bạn mỗi tối thì chẳng cần gì nữa. Những khi nhìn vào mắt nàng, tôi thấy bản thân, thấy cuộc đời ý nghĩa hơn, thấy thế giới tươi đẹp trong đó. Mắt nàng như một cái giếng đầy ự nước trong lành khi nhìn xuống. Tôi quên mọi thứ khác, hoàn toàn nghĩa đen, chỉ còn tôi và nàng trên đời. Chúng tôi giao phối rất thường xuyên suốt nhiều tháng bên nhau nhưng không tài nào nở ra một mụn sống. Mà nếu có, nàng sẽ đẻ ra trứng hay một sinh vật gì khác? Tôi không chắc.

“Phải đẻ trứng mới có thể kết nối với nhau về mặt tâm thần,” nàng nói. “Nếu không hai ta sẽ lạc nhau trong chuyến di cư tới.”

“Vậy anh sẽ trông chừng em, mọi chuyện sẽ ổn thôi.”

Vài tuần trước ngày nàng tiếp nhận bộ phận của tôi năm ngoái, cả hai quyết định di cư sớm. Hiện tại khi nhớ về quãng thời gian trước, tôi đang làm việc cần làm, “trông chừng nàng” để không lạc nhau. Suốt nhiều ngày bay lượn theo hải ngạn, nghe những con sóng vỗ đến nhàm tai, cắn ngập bờ cát rồi nhả ra, sợi chỉ nuốt mặt trời và nặn mặt trăng, lại nuốt mặt trăng và nặn mặt trời. Cảnh trí là hai bờ vực giữa quặn thắt và thinh lặng, nước và mây, hay cũng là quặn thắt ngoài không gian và thinh lặng trong tâm hồn. Đó là đêm chúng tôi chạm trán một cơn giông kinh hoàng. Trong khung cảnh mịt mùng, tối đen của đêm, chỉ đôi khi lóe lên một tia chớp, tôi cố khóa chặt điểm nhìn vào nàng và chỉ một mình nàng mà thôi, nhưng cuồng phong cuốn phăng cả ánh sáng, gió giật lấp đầy thế giới. Mưa trong tôi cũng bắt đầu rơi. Dường như vết thương trên đôi cánh nàng tái phát, bộ phận tôi lắp vào cơ thể nàng nhói lên dữ dội, tôi cảm nhận được. Tôi cố bay nhanh đến, thoáng chốc nàng chỉ còn là dư ảnh, càng tiến gần bao nhiêu, nàng càng xa cách bấy nhiêu, lúc bay lên cao, lúc lao xuống biển, lúc thì nàng ngay sát bên tôi. Nhưng đã không còn ai ở đó nữa. Tôi rú lên nhưng bị tiếng giông lấn át. Chỉ nghe tiếng vỗ cánh “xoành xoạch”, không phải của tôi, âm thanh phát ra từ trong tâm hồn. Đôi cánh tôi mỏi nhừ, không gắng gượng nổi, và tôi lao mình xuống biển sâu.

❋❋❋

Tôi ngỡ đã thấy mắt ai đó khi tỉnh lại, xanh thiên thanh cùng những gợn trắng bồng bềnh, nhưng ấy chẳng phải mắt ai cả. Chỉ là bầu trời khi nhìn lên từ một đáy giếng khô. Toàn thân lạnh cóng, không mặc quần áo, tôi kiểm tra các bộ phận và may mắn không khuyết đi phần nào. Tôi nghe tiếng chim nỉ non sương sớm, tiếng người cười nói rôm rả mùa xuân, có lẽ trên kia là một khung cảnh thanh bình. Trong bộ dạng trần trụi, tôi hét lên cầu cứu, mẹ là người đầu tiên ghé mặt vào miệng giếng, khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn của tuổi già, mắt lèm nhèm nhưng vẫn nhận ra thằng con già đầu của mình đang mắc kẹt và hốt hoảng báo tin cho cả làng. Vài phút sau đám trẻ con xúm vào, thích thú cảnh tôi lõa thể dưới giếng mà chỉ trỏ tán loạn. Mãi mới có đoàn người lớn đến, thả thang dây xuống thì tôi mới thoát được. Giây phút chui qua miệng giếng tôi có cảm giác kì lạ, như thể tâm hồn vừa trở lại sau giấc ngủ dài, một chuyến du hành sang thế giới khác.

“Chú cũng không hiểu sao mình lại nằm dưới đó.”

“Và trần chuồng nữa ạ!” Đám nhóc kêu.

“Ừ, còn trần chuồng nữa,” tôi nói, giờ đã mặc quần áo hẳn hoi. “Tôi không có ký ức nào về chuyện đó. Tôi vẫn biết hôm nay là buổi đầu giao mùa, biết mình là ai, nhớ mặt bố mẹ, nhưng trước đó hầu như không tồn tại.”

“Sáng tinh mơ, mặt trời chưa ló dạng tôi đã thấy cậu vào rừng mà? Chẳng lẽ cậu ngã đập đầu xuống giếng nên mất trí nhớ?” Trưởng làng hỏi.

“Có lẽ vậy, nhưng trên người không có vết thương nào, chỉ có…” Chỉ có một cơn đau trong tâm hồn, tôi ngừng lại trước khi câu từ kịp khoác đôi cánh âm thanh.

Chợt tay trái tôi hơi nhói lên.

“Tôi hiểu. Thôi cậu về nghỉ đi, tôi sẽ nghiên cứu sau.”

Trở về nhà trên con đường sỏi đá trước đôi mắt hiếu kì của trẻ con và dân làng, tôi nhốt mình trong phòng suốt một thời gian dài sau đó. Tôi muốn nhân cơ hội này hòng thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Tôi đã dành cả tuổi trẻ để lao động, kiếm ăn và làm trụ cột gia đình. Căn nhà sàn bằng gỗ cao hơn đầu người nhưng không thể chạm mây, bầu trời còn xa lắm. Không bay thì làm sao với tới? Đôi lúc tay trái tôi nhói lên, không quá đau, cảm giác như ai đó cầm tay tôi duỗi mạnh rồi gập vào. Ngày qua ngày, tôi ngồi trên ghế cạnh cửa sổ phòng, bắt tréo chân, ngước nhìn trời bằng đôi mắt long lanh, với một câu hỏi vẩn vơ khờ dại: “Đến khi nào loài người mới được bay?” Tôi lại nhìn xa xăm đám trẻ con đùa bỡn bên dòng suối, nguồn nước duy nhất của làng, nhìn xuống cầu thang là một khúc cây khoét thành từng bậc. Ngắm rừng ngắm mây, tôi xin bố ngưng lao động vài hôm chỉ để nghĩ ngợi hết chuyện này đến chuyện khác, nghĩ nhiều đến tưởng đã bước vào cõi niết bàn. Nhưng sáng hôm sau dậy thì tôi vẫn là tôi, vẫn trong căn nhà sàn cao không chạm trời, và vẫn không mọc cánh.

Dù đã kiểm tra kỹ để chắc rằng mình lành lặn, nhưng tôi luôn cảm giác thiếu mất thứ gì đó. Một thứ sâu trong tâm hồn, thứ ấy gửi tín hiệu đến tôi từ đầu kia thế giới. Tôi không biết đáp lại tín hiệu bằng cách nào. Tôi bắt đầu trò chuyện với những con muỗi ghé chơi, hỏi chúng về bản chất sự vật, cảm giác được bay. Hàng xóm nghĩ tôi đã hóa dại sau khi đập đầu xuống giếng, hoặc linh hồn bị quỷ tha đi mất. Tôi chỉ biết an ủi mẹ rằng bản thân còn nhận thức được mình, chẳng có gì đáng lo.

Một sáng thường lệ, tôi toan ngồi vào ghế mà dành cả ngày suy tư như mọi lần. Đúng lúc trông thấy một đôi trai gái trẻ trung, bằng tuổi tôi của hai chục năm trước, nắm tay đi dạo nơi bìa rừng. Con cái và con đực yêu nhau thực lòng, sẻ chia từng cảnh sắc, sự vật mình thấy cho nhau. Hình như nàng bị mù, người con trai đang ra sức miêu tả lại vẻ đẹp thế giới cho một vẻ đẹp trong thế giới của anh. Tay trái tôi nhói lên khủng khiếp, lần này cơn đau dữ dội hơn rất nhiều. Tôi ngã nhào xuống sàn, cắn răng, nhăn nhó, hai đùi vô thức kẹp lấy tay trái, tay phải bấu ngực, tim muốn phát nổ, hơi thở loạn lạc. Dù dùng biện pháp nào cơn đau cũng không ngớt, đến đêm cơn đau dịu xuống một chút nhưng vẫn âm ỉ. Bình tĩnh dần, tôi làm quen với cái đau bằng việc điều hòa nhịp thở. Không tài nào ngủ được. Tôi bước ra cửa sổ, ngắm ngôi làng ướt đẫm ánh trăng, bắt quả tang mình đang vô thức tìm kiếm hình ảnh cặp đôi ấy. Tất nhiên họ không ở đây, chỉ có cái giếng khô mời gọi. Bỗng một con đại bàng từ đâu bay đến, đậu trước sân nhà ngước nhìn tôi, tôi cũng nhìn xuống nó. Rồi nó bay vào rừng, tôi ngoái đầu theo, khu rừng tối tăm vô phương, như thể ánh sáng chưa từng tồn tại, tối như trước khi xuất hiện bất cứ vật chất nào.

Và tôi lao ra cửa sổ, đuổi theo con đại bàng vào sâu trong rừng.

“Anh nhất định sẽ tìm em. Dù có phải bay đến nơi tận cùng thế giới.”

❋❋❋

Giờ đây tôi đang đi tìm một điều đã mất từ lâu trong mình giữa mùa thu cuộc đời. Một bộ phận trước kia tôi từng có, đã rất lâu rồi, dù phải bay qua bao nhiêu mặt trăng và mặt trời, hàng trăm cơn giông nữa tôi cũng sẽ tìm bằng được. Khu rừng tối tăm vang lên âm thanh “rồm rộp” trong đêm tĩnh mịch, tiếng những cành cây bị dẫm lên, những tán lá bị quật xuống, tiếng tru của một đàn sói đuổi sau lưng. Trăm con muỗi vây xung quanh. Cứ băng băng không ngã. Con đại bàng đã biến mất. Đàn sói sắp vồ đến. Tay trái vẫn đau như thế, tôi hóa thành chim và đập cánh bay lên trời. Không còn nghe thấy gì nữa, không sói, không đại bàng, không muỗi, chỉ có tôi và bầu trời, nhưng vẫn thiếu một thứ. Tôi bay ngang mặt trăng, cao hơn cả mây và cảm tưởng sắp chạm đến thiên hà.

Chuẩn bị đương đầu cơn giông lần nữa nhưng tôi không sợ, tôi phải đối diện nó như cách bản thân đã làm trong hàng triệu cơn mơ. Và lần này tôi sẽ không đánh mất điều gì thuộc về mình nữa. Cánh trái nhói lên, rất gần rồi. Cơn giông ập đến. Khi vừa kịp nhận ra thì bão tố đã kín trời, những tiếng lầm than kinh hoàng của mây mù giáng trần, tôi lao thẳng vào con quái vật trên trời cao, giữa đại dương. Ánh trăng ngụp lặn trong dòng chảy cơn bão. Tôi lại thấy đôi mắt trong veo màu thiên thanh ấy, tiếng đập cánh “xoành xoạch” của ai đó. Mưa đánh thủng mặt biển, chớp lóe, sấm nổ, tôi nằm trong vụ nổ đó. Bầu trời đen đặc vỡ ra thành những mảnh vụn ánh sáng rơi xuống đại dương. Và trong cơn bão, cũng có thể trong chiều không gian khác, tôi đã gặp lại nàng.

“Anh muốn hỏi một câu để xác nhận em chính là em. Lần đầu chúng mình gặp nhau, anh đã cho em thứ gì? Em còn nhớ không?”

“Cánh trái. Cánh trái của anh.”

Đúng là nàng. Tôi vui mừng, nhưng cũng vừa cảm giác mọi thứ trong ngực xé toạc ra. Tại sao đây là cách duy nhất để ta gặp được nhau?

“Cho anh báo tin lành trước nhé. Anh đã sống sót qua trận bão.”

Nàng mỉm cười. “Em biết.”

“Ngoài chuyện ấy ra thì còn lại đều là tin xấu cả. Anh đã sống, nhưng bên trong tồn vong hàng vạn câu hỏi: Thứ nhất. Em đang ở đâu, làm gì ở đó? Thứ hai. Tại sao em không đến gặp anh?”

“Nếu có thể, hãy quên em đi, càng sớm càng tốt. Em ở đâu, đang làm gì, chuyện ấy không quan trọng. Chúng ta đã bị tách thành hai thế giới đặt rất xa nhau. Không cách gì trở lại như xưa được nữa. Làm ơn hãy hiểu em đau đến thế nào khi phải nói chuyện với anh theo cách này.”

“Em nói em muốn anh quên đi em. Nhưng đồng thời, ở một chốn nào đó trên thế gian, em vẫn gửi tín hiệu đến anh, từ nơi rất xa vẳng tới. Cái tín hiệu ấy đôi khi yếu ớt chênh vênh, nhưng đôi khi làm anh đau đớn vô ngần. Anh có thể chấp nhận có một em cố rời xa anh, nhưng cũng có một em đang cố tiến gần anh, từng chút một. Anh không thể dễ dàng quên, và chắc chắn sẽ chẳng bao giờ quên những ngày ta sống bên nhau. Vì em đã thực sự đến, nên em là một phần của đời anh, và cũng là chính anh. Làm sao quên được chính mình?”

“Liệu anh có đủ sức đến được đây?” Nàng hỏi.

“Anh đang tiến gần em và sẽ còn tiến gần hơn nữa.”

Không biết mình đã chết hay chưa, nhưng sợ hãi trong tôi thì đã chết. Bởi bão lòng tôi lớn hơn thế nhiều. Tôi đánh bại cơn cuồng phong. Thế giới bừng sáng trở lại, tôi bay thực cao đón những tia nắng xuyên thấu tâm hồn, sưởi ấm bộ lông cùng đôi cánh không biết mỏi, đôi cánh đã mọc ra từ hoài bão. Cảnh sắc thiên chương này nhắc tôi nhớ cái bộ phận ấy vẫn luôn ở đây, tìm đâu xa xôi? Nàng vốn đã là một bộ phận trong tôi.

Chú chim ngắm mặt trời sớm nhất thế giới.

Từ đó tay trái tôi không còn nhói lên nữa. Dự chuyến hành trình sẽ dài hơn, nhưng không còn lý do nào. Thứ cần tìm đã tìm ra, và câu hỏi trước kia của nàng cũng có câu trả lời. “Vậy anh thực sự là ai?” Tôi là ai ấy à? Chim, muỗi, đại bàng, hay người? Tôi là tất cả chúng ta, những ai còn sống trên đời. Khi bay về làng thì cái giếng khô đã ngập nước, dòng chảy đã trở lại, tôi tin đây là khởi đầu.​​​​​​​​​​​​​​

8

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout