Truyện ngắn: Kiếm Thần
Tác giả: Chiết Tri
Chàng dắt ngựa men theo lối mòn hẹp, cẩn thận bước qua cổng rừng. Thật ra, khu rừng này không có cổng, đến cả tên của khu rừng là gì chàng cũng không biết. Chàng chỉ cảm giác như mình vừa bước qua một ranh giới ngăn cách nhân gian và huyền thoại, tiến vào vùng đất của những linh hồn hoạt bát sống trong đất, trong suối, trong cả những thân cây già. Chợt, chàng rụt lại bước chân, lùi về phía sau.
“Chưa đến lúc.” Chàng thầm thì. “Chưa sẵn sàng.” Nói xong, chàng dứt khoát quay đầu.
Chàng dắt ngựa náu dưới bóng của một cây cổ thụ rễ bạnh, mồ hôi rịn ướt lưng áo. Gió Ai Lao thổi đến từ phía Tây Nam, cuốn đi hơi sương đọng ở trên lá, ồn ào vờn vạt áo của chàng như một lời chào ngập nghi vấn. Chàng trai không để ý đến gió, ngồi bệt lên cái rễ to nhất của cây cổ thụ già. Đôi giày vải của chàng dính đầy rêu và bùn, quần dài sẫm màu bụi đất, vai áo sờn đến bạc. Từ trấn Thanh Hóa, chàng đã vượt qua châu Bố Chính, lội suối Pha Luông, đi trong sương mù của vùng thượng du đất Ai Lao rồi bám theo lối mòn xưa do người Khơ Mú chỉ dẫn, hướng xuống phương Nam tiến sâu vào đại ngàn. Chặng đường dài quá mức một người thường có thể chịu, thế nhưng chàng vẫn kiên trì bước tiếp. Cuối cùng, chàng đến được chốn thiêng.
“Cảm ơn mày, bạn à.” Chàng mỉm cười vuốt ve tấm lưng gầy của con ngựa lang, san sẻ với nó một phần nước trong, tặng thêm cho nó hai quả chuối cuối cùng mà chàng có.
Chàng ngẩng đầu, nhìn ngắm bầu trời trong xanh cao vời vợi tựa như sợ rằng đây là lần cuối được nhìn thấy màu lam và trắng. Chàng không sợ hãi cái chết, chàng chỉ luyến tiếc cái đẹp mà thôi.
“Có một lưỡi kiếm bị thần linh giấu đi, cắm sâu trong tim rừng, nơi trời giấu ánh sáng, nơi người giấu lời thề. Khi thanh kiếm thức tỉnh, mọi xiềng xích của thế gian sẽ gãy nát. Núi sông sẽ trở mình, và dân tộc sẽ đứng lên. Tự do như gió của trời, mạnh mẽ như sóng dồn đá núi…” Chàng thở hắt một hơi dài. “Nghe chẳng khác gì chuyện cổ tích.”
Bên trong túi vải của chàng là một tấm bản đồ nhàu nát, có vài ba ký hiệu mờ nhạt và mấy câu viết bằng chữ Nôm nguệch ngoạc. Chàng không hiểu sao mình đã tin, hành trang gọn nhẹ lên đường mà chẳng hề nghĩ suy tính toán. Một hành động bốc đồng chàng chưa từng làm trong quá khứ.
“Có điều, ta cũng không hối hận.” Chàng mỉm cười nói với con ngựa gầy.
Nói xong, chàng ngoảnh đầu nhìn về phía rừng. Rừng trả lời chàng bằng một màu xanh dày đặc, âm u, sâu hun hút. Chàng mím môi, cúi đầu cắn lương khô, nhai chậm rồi mới nuốt. Thức ăn vướng cổ, chàng lại nhấp một ngụm nước trong. Nuốt xong, chàng mới mỉm cười nói với rừng, thản nhiên như thể trò chuyện với người bạn quen biết lâu năm:
“Gấp gáp cái gì? Ta đã ăn xong đâu.”
Bản đồ chỉ dẫn đường đi tới rừng Thiêng. Một khi bước vào rừng, chàng sẽ không còn sự chỉ dẫn nào cả.
“Ăn no chắc bụng, làm gì cũng ổn.” Chàng luôn vững tin như thế.
Mãi đến khi ăn uống xong xuôi, cả người lẫn ngựa đều no bụng, chàng mới đứng dậy nắm dây cương. Đường rừng không còn thích hợp để cưỡi ngựa, nhưng để con ngựa ở lại bìa rừng một mình cũng không phải là ý hay. Hết cách, chàng đành phải dắt theo ngựa vào. Chàng rút ra kiếm ngắn, vừa dắt ngựa vừa chém cỏ cây chắn lối. Rừng im ắng, chỉ có tiếng chim kêu, tiếng bước chân giẫm trên lá sột soạt cùng với tiếng thở nặng nhọc của chàng và con ngựa.
“Thôi thì, dẫu sao mày đã chở tao đi một chặng đường dài, đến nơi này, coi như tao trả ơn cho mày vậy.”
Bên trong rừng, trời dường như thấp xuống, sương lơ lửng giữa những tầng cây, và cái mùi ngai ngái của đất ướt lâu năm quyện cùng lá mục, phân thú, nấm, rêu cứ quẩn quanh chóp mũi. Những thân cây cổ thụ không mọc riêng lẻ mà kết thành trụ cột âm u, nâng đỡ mái vòm lá dày đến mức ánh sáng chỉ còn là vệt bụi lơ lửng trong không gian. Cây ở đây quấn vào nhau như rắn, dây leo chằng chịt, rễ bạnh trồi lên như những bàn tay khổng lồ đang bấu vào đất. San sát kín kẽ là thế, vậy mà nơi đây lại có một đường mòn.
“Tuy đường mòn không dễ đi nhưng có còn hơn không. Chẳng lẽ ông trời đang giúp ta sao?” Chàng nỉ non tự hỏi. “Hoặc là, nơi đây cũng có người sinh sống?”
Nghĩ đến việc có người sống trong rừng, chàng dường như tăng thêm vài phần dũng khí, và sự bí ẩn của khu rừng giảm đi vài phân. Chỉ cần nơi đây còn có dấu tích của con người, vậy thì chàng không có việc gì mà phải sợ cả.
Ở trong rừng, đi không nhanh được. Chàng cứ thế, dắt ngựa, bước thấp bước cao. Từng bước đi tạo ra âm thanh mềm oặt, như thể đất đang cố giữ lại những kẻ muốn tiến vào chỗ sâu. Chàng cố gắng tìm kiếm sự hiện diện của con người, nhưng ngoại trừ con đường dưới chân, không còn manh mối nào khác. Chàng dần nghe thấy tiếng ve ngân, đôi khi còn có tiếng giẫm lá sột soạt của thú nhỏ, chim kêu, vượn hót. Thật xa lạ với chàng, nhưng cũng thật hoang sơ, kích thích.
Mãi cho đến khi ánh sáng gần như bị tước sạch sáu phần từ tầng tán ở phía trên, mồ hôi đã quyện cùng bụi đất tạo thành một lớp màng mỏng nhớp nháp trên trán chàng. Ánh nắng buổi chiều lọt qua tầng tán, chấm loang trên lưng áo chàm. Rừng phía trước bỗng đậm hơn, không những bằng màu sắc mà còn thông qua cảm giác của chàng, như thế có ánh mắt nào đó đang dõi theo. Chàng siết chặt dây cương, nhắm mắt một thoáng. Mệt. Nhưng chàng không thể dừng lại nơi đây. Rừng vào ban đêm không hề thân thiện với con người, chàng phải nhanh chóng tìm kiếm chỗ an toàn để tá túc.
Tuy nhiên, có một chuyện chàng cần giải quyết ngay: chàng đã cạn kiệt nước. Nếu chỉ có một mình chàng, túi nước mang theo hẳn là có thể trụ được tới hừng đông, thế nhưng chàng còn dắt theo một con ngựa. Tuy chàng cứ mãi trêu nó gầy, nhưng lượng nước nó cần vẫn rất lớn.
“Chịu khó một chút nữa nhé? Ông bạn thân.” Chàng vỗ về con ngựa gầy, để nó ngừng nôn nóng giậm chân. Dấu chân ngựa in sâu vào lớp bùn loang lổ như đang thôi thúc chàng tìm kiếm nơi thích hợp.
“Đất lún?” Chàng nheo mắt, cúi xuống kiểm tra. Chàng quẹt một chút đất bùn, đưa lên ngửi thử. Bùn vẫn mang theo mùi rêu, nhưng đậm hơn, tanh hơn, mềm và ngậm nhiều nước hơn.
Chàng đột nhiên ngẩng đầu, vui mừng xoa bờm ngựa.
“Ông bạn già, mày muốn chỉ cho tao nơi có nước sao?”
Con ngựa hí khẽ thay cho câu trả lời. Nó giật dây cương, ngoắc đầu về một hướng. Nơi đó cũng có một lối mòn, nhưng nhỏ hơn, đã bị cây lá rậm rạp che lấp gần hết hai bên con đường.
Chàng đi theo lối rẽ, rút kiếm chém cây cối mở đường. Đất ở nơi này khá dốc, đã thế còn trơn. Nheo mắt nhìn kỹ, chàng còn nhìn thấy cả vài ba dấu móng guốc khô. Con đường này là do dã thú lui tới tạo thành.
“Có lẽ những con thú đã men theo lối này để đi đến nguồn nước.”
Chàng đi càng thêm kiên định. Tán lá dần rậm hơn, rễ cây xanh hơn, rêu dày mướt mát đọng hơi sương, và rừng trở nên mát mẻ hơn nhiều lắm. Giữa không gian đầy những âm thanh quen thuộc, lặp đi lặp lại nhiều đến tê dại da đầu, có một âm thanh khác biệt vụt qua, gõ nhẹ vào tai chàng như chuỗi rơi từng hạt. Chàng mừng rỡ nhận ra đó là tiếng nước.
Chàng men theo mớ rễ cây đan chéo như rọ, thoáng thấy ánh sáng lấp ló bên dưới tầng lá thấp. Chàng dắt ngựa bước nhanh hơn, và rừng đột ngột mở ra một khoảng không trống trải. Trước mặt chàng là một con suối trong. Tiếng suối không ồn ào như tiếng thác, cũng chẳng rì rào như gió thổi qua kẽ lá. Nó róc rách, nhẹ nhàng và nhẫn nại, như hồn rừng đang len lỏi giữa cội rễ và đá ngầm. Có đoạn, suối vấp phải phiến đá nằm xiên, âm thanh trở nên sắc như tiếng ngọc vỡ. Có khi suối đi qua lớp cỏ mềm, nó lại hiền hòa với tiếng khe khẽ như là hát ru.
Chàng cúi xuống, tay khẽ vốc nước lên mặt. Nước mát rượi đến tỉnh cả người. Con ngựa già thủng thẳng uống nước, cái đuôi dài thích chí phất tới lui. Chàng lại tranh thủ lấy đầy nước, treo bên hông ngựa rồi đơm vài con cá nhỏ. Mổ cá xong, rửa sạch sẽ, chàng không nấu vội mà chỉ ướp thêm chút muối rồi gói kín, sau dắt ngựa rời đi. Nhưng chàng không định đi quá xa, bởi vì trời sắp tối. Ngày sáu khắc, đêm năm canh. Thời điểm chuyển giao giữa khắc và canh là lúc rừng trở mình. Thời khắc ấy, rừng sẽ cho người thấy bộ dạng hung mãnh nhất của nó.
Đảo mắt nhìn một vòng địa hình quanh suối, chàng tìm thấy một mảnh đất cao, dốc thoai thoải, cách dòng nước ước chừng trăm bước. Chàng dắt ngựa leo dốc, sau đó đi xa hơn một chút, bởi vì đêm buông là lúc các loài thú tụ tập về quanh nguồn nước.
“Sáng mai chịu khó vòng về lấy nước là được. Tuy rằng tốn ít nhiều công sức, nhưng vẫn tốt hơn việc đang ngủ thì gặp phải dã thú đi dạo ngang qua nhiều.”
Chàng hớn hở nói chuyện tiếu lâm với con ngựa, đổi lại một hơi thở nóng hổi thổi phì vào mặt.
Khi mặt trời hóa thành một vầng đỏ nhạt sau vòm cây, chàng tìm thấy một khoảng đất bằng dưới tán của một cây sao rừng rất lớn. Rễ nó chồm lên như vảy rồng, tản ra khắp xung quanh; bên dưới gốc còn một khoảng lõm vào bên trong, vừa đủ cho một người đàn ông trưởng thành nằm. Chàng thò đầu vào kiểm tra, còn thử sờ soạng lớp lá khô chất dày như chăn. Chưa đủ an tâm, chàng còn kiểm tra cả xung quanh. Thấy đất khô, không có phân thú, gió bị chắn bởi những thân cây to, và không gian thoáng đãng thích hợp cho cả người lẫn ngựa chạy vội, chàng không nhịn được bật thốt lên:
“Thật kỳ lạ, vừa khéo cứ như mọi thứ đã được sắp đặt sẵn vậy!”
Vừa trầm trồ thiên nhiên kỳ diệu, chàng vừa gom lại cành lá khô. Lá khô dùng để lót lên mặt đất cho ngựa nằm, còn cành khô thì chàng chất thành đống rồi nhóm lửa. Khói lửa tỏa lên xua đi cái lạnh của đêm, đuổi cả lũ muỗi rừng đang vo ve ở bên rìa bóng tối. Chàng lấy ra mấy con cá ban nãy, xiên dọc từ miệng thẳng tới phần gốc đuôi, nướng trên lửa hồng. Trong lúc chờ cá chín, chàng đi vòng quanh, chọn những nhành lá tươi non nhất rồi chất thành đống nơi con ngựa đang nằm nghỉ. Chẳng mấy chốc, mùi thịt nướng lan ra, hòa với mùi khói và mùi của rừng, làm dạ dày chàng bắt đầu cồn cào. Thế nhưng chàng không vội.
“Cá phải nướng giòn mới ngon.” Chàng cười nói với con ngựa.
Con ngựa chóp chép nhai lá xanh, đập đuôi lên đất xoành xoạch, dáng vẻ thích ý. Chàng ôm bụng cười vang. Mấy con chim không rõ là đến giờ về tổ hay bị tiếng chàng cười to làm giật mình, vỗ cánh bay đi. Và dường như sự vắng mặt của bầy chim mở ra một thời đại tự do của loài côn trùng, ếch nhái, rừng ngân lên bài hát của riêng nó. Réo rắt và trong veo.
Chàng vừa lắng nghe rừng ca hát, vừa nhấm nháp từng miếng thịt cá cháy vàng, rồi kết thúc bữa tối bằng nước suối và mấy quả ổi dại. Ổi rừng mọc nhiều ven suối, chàng nghe mùi thơm mà tìm đến, ăn thử một quả thấy ưng, bèn hái một túi mang theo ăn vặt.
Ăn xong, chàng lại khoét gỗ, làm cho con ngựa một cái máng nước nhỏ thô sơ. Rồi chàng lại gom thêm một mớ nhành khô nữa, lấy ra một phần để cắm vòng quanh trại, phần còn lại để dành nhóm lửa. Sau đó, chàng buộc một sợi dây nhỏ, dài vừa đủ để nối từ chỗ chàng ngủ đến nơi ngựa nằm. Một đầu buộc vào cổ tay chàng, đầu còn lại thì buộc chân ngựa. Xong xuôi, chàng đi đến bên hõm cây, cầm kiếm khua đống lá khô xào xạc. Không thấy có rắn hay rết, chàng mới chui vào rồi nằm ngửa trên đống lá, dùng hành lý gối đầu, đồng thời đắp một tấm vải mỏng ngang bụng.
Đêm rốt cuộc buông xuống. Đống lửa vẫn cháy tí tách, chốc chốc vang lên một tiếng nổ “đốp”. Âm thanh ấy không khiến chàng khó chịu, ngược lại, để cho chàng cảm thấy an tâm. Ánh sáng và sự ấm áp lúc nào cũng là hai thứ mà người phàm khát khao khi lạc trong bóng tối.
Vào đêm, ánh trăng bị chém vụn qua tán lá, loang lổ rơi trên đất. Tiếng thú ăn đêm rít lên từ nơi xa, và sương trắng bò sát mặt đất, mang theo cái rét buốt xuyên qua vải áo, bám vào da thịt. Mấy con muỗi không e dè ngọn lửa nữa, chúng bắt đầu bu quanh chàng, vo ve điếc tai và chích từng cú đau nhói. Chàng bực bội trở mình, kéo căng tấm vải trùm kín người, dần chìm vào trong giấc ngủ.
Chàng không dám ngủ sâu, nhắm mắt lim dim lắng nghe động tĩnh của rừng. Đã có vài lần chàng giật mình tỉnh giấc, bởi một âm thanh lạch cạch nhỏ như đá vỡ, bởi tiếng chim rừng vỗ cánh phành phạch, bởi tiếng đứt gãy của một cành khô nào đấy. Mỗi lần như thế, chàng lại siết chặt thanh kiếm trong tay, trở mình ngồi dậy, đề phòng nhìn một vòng xung quanh. Cũng là mỗi lần như thế, con ngựa gầy lại điều duy nhất khiến trái tim của chàng thôi hoảng hốt. Nó vẫn nhắm mắt, thở nhẹ, dài và sâu, ngủ rất say.
Chàng đứng lên, thêm củi vào đống lửa rồi mới nằm xuống, lòng không còn sợ hãi. Nhìn lửa hồng, chàng bắt đầu suy nghĩ vẩn vơ, về dân tộc, về đất nước, về gông xiềng và ngục giam, về tự do và thanh kiếm báu. Chàng khát khao làm sao, thanh kiếm ấy. Ao ước đến nỗi mang cả nó vào mơ, một giấc mơ chập chờn, lặp lại.
Một đêm dài cứ như vậy mà trôi qua.
Có tiếng vượn hú dài đánh thức chàng trai trẻ đang nằm say ngủ trong hốc cây. Chàng giật mình choàng tỉnh giấc, tim đập thình thịch trong chốc lát và mắt thì trừng trừng nhìn ngó xung quanh.
Lửa trại đã tàn. Vòng cây gỗ vẫn còn nguyên. Chim chóc đuổi nhau ríu rít trên những nhánh cây, và con ngựa của chàng đã đứng dậy từ lúc nào. Nó thở phì qua hai cánh mũi nở to, tai giật nhẹ như đang lắng nghe tiếng chim. Thấy chàng ngồi dậy, nó bèn dậm nhẹ chân bước tới bên cạnh, khẽ rung người khiến đám lá rừng vướng trên lưng rơi lả tả. Chàng lấy tay che chắn lá cây, cười làm lành:
“Xin lỗi, tao ngủ quên mất.” Giấc mơ đêm qua quá đẹp, chàng si mê không nỡ lòng rời đi. Thế nhưng rừng của buổi sớm tinh mơ cũng rất đẹp.
Từ phía Đông, mặt trời lên thật chậm, bởi vậy mà ánh sáng tràn vào rừng cũng rất nhẹ nhàng, rón rén. Nắng như vệt nhũ mỏng quẹt lên nền tranh rừng rậm phủ sương, từ nơi cao nhất kéo dài xuống các tầng thấp hơn, cuối cùng nằm yên trên đất. Nắng ở rừng dường như mang theo một sắc xanh biêng biếc, pha thêm một chút nâu, dìu dịu và không gay gắt như cái nắng ở quê hương chàng. Không ồn ào náo động, rừng cứ thế sáng lên, rực rỡ một cách yên lặng.
***
Hôm nay đã là ngày thứ năm chàng lang thang trong rừng. Kiếm thần vẫn chẳng thấy đâu, và có vẻ như chàng đã đi lạc. Tới xế chiều, trời sẫm màu sớm hơn mọi khi. Mọi việc diễn ra thật nhanh, đến nỗi chàng chỉ vừa kịp ngẩng đầu, sấm đã mang theo mưa to ào ào trút xuống rừng rậm. Chàng vội kéo ngựa tìm nơi trú ẩn. Thật không may, chàng đã ướt đẫm, cả túi hành lý đeo sau lưng cũng bị nước thấm vào trong.
“Quỷ tha ma bắt thật!” Chàng thấp giọng mắng.
Chàng đứng dưới tán cây to, lựa chọn những cành cây khô ráo nhất để nhóm lửa sưởi ấm. Cành khô trên cây vẫn có, nhưng mồi lửa của chàng đã bị vào nước, ẩm, bật không ra lửa.
Trái tim chàng đập hẫng một nhịp. Rừng đột nhiên im bặt tiếng chim thú, chỉ còn lại tiếng mưa rơi xối xả cùng tiếng gió hú bao trùm lên mấy dặm núi đồi. Con ngựa gầy đột ngột giậm chân, mạnh mẽ hất đầu, tai gác ngược ra sau. Nó bất an hí vài tiếng ngắn ngủn, cánh mũi phập phồng phì ra mấy hơi nặng nề, nóng hổi. Nó nhìn chàng bằng đôi mắt đen bóng, rồi lại nhìn vào lùm cây rậm rạp. Chàng hít sâu một hơi thật lạnh. Rõ ràng, con ngựa của chàng đã nhận ra có thứ gì đó nguy hiểm đang rình rập quanh đây.
Chàng vuốt nhẹ sống mũi của con ngựa, tay còn lại đặt lên chuôi kiếm, thủ thế đề phòng. Mưa rất lớn, dội lên những tán cây, bụi rậm khiến cho chúng lung lay không ngừng. Chàng thở thật nhẹ, ánh mắt như đuốc quét qua từng ngóc ngách. Rốt cuộc, chàng nhìn thấy hai đốm sáng vàng lặng lẽ nổi lên giữa rừng rậm tối om. Ánh mắt ấy không hề lay động, như thể nó đã ở đó từ trước cả khi chàng tiến tới.
Sống lưng chàng lạnh buốt, chàng biết đấy là hổ. Đây là lần đầu tiên chàng gặp hổ, nhưng chàng không dám vội vàng bỏ chạy. Bài học đầu tiên dành cho người đi rừng: Quay lưng với hổ chẳng khác gì đưa cổ vào miệng nó. Thay vào đó, chàng dắt ngựa lùi từng bước chậm rãi, ánh mắt không rời đi bụi rậm.
Con hổ vẫn không nhúc nhích, nó nằm yên trong bụi, ánh mắt thẳng như dây cung đã giương.
Dưới tán cổ thụ rậm rạp, mưa rừng đổ xuống ào ào như thác. Lá to, lá nhỏ hứng nước rồi đổ trút thành dòng, tiếng vang ầm ầm tựa trống trận xa xăm. Chàng đứng dựa sát thân cây, sẵn sàng rút kiếm. Con ngựa gầy không bỏ chạy mà chắn bên cạnh chàng, bảo vệ mặt hông.
Trận mưa to làm thế giới như đông cứng, nhưng kẻ săn mồi không đợi chờ thêm nữa. Nó phóng ra như mũi tên rời cung, thân hình vằn vện vút qua bụi lá, móng vuốt vươn ra giữa trời mưa. Mắt nó nhắm thẳng vào chàng, miệng há rộng như muốn cắn đứt cái cần cổ nhỏ bé của con mồi. Con ngựa gầy hí vang, tung hai vó trước, còn chàng thì lách qua một bên, nhanh nhẹn như một con chim yến, lưỡi kiếm vẽ một vòng trong không trung, chém trúng bả vai phải của con hổ. Con hổ ăn đau, chồm lên muốn vả ngựa của chàng thì bỗng dưng, vang lên một tiếng rít xé gió cắt ngang màn mưa.
Có một mũi tên phóng ra từ phía rừng rậm bên trái, đối diện nơi con hổ ẩn nấp ban nãy, ghim sâu vào chân sau của kẻ săn mồi. Con hổ gầm lên đau đớn, bàn chân to đập lệch sang một bên. Nó vồ hụt.
Con ngựa gầy xoay lưng đá hậu, đá con hổ bay lên cách mặt đất một đoạn thấp rồi trượt đi một khoảng. Con hổ giờ đây lấm lem bùn đất. Nó lồm cồm bò dậy, đôi mắt vàng hiện lên nét kinh hoàng. Con hổ tựa hồ đứng không vững. Nó rít to, lùi một bước rồi quay ngoắt đi, co chân chạy vội. Tuy rằng có vài lần té ngã, nhưng tốc độ thật nhanh.
Mưa vẫn chưa dứt. Có tiếng chân người đạp lá mục lao tới từ phía bên trái. Chàng xoay người, tay vẫn giữ chặt thanh kiếm, nheo mắt nhìn xuyên qua màn mưa trắng xóa. Sau đó, chàng nhìn thấy có một người đàn ông đang chạy vội dưới những tán cây rừng rậm rạp. Người đó giống như một con hươu đực xinh đẹp đang dạo chơi trong cánh rừng của riêng nó. Lá cây nhường đường cho anh ta bước qua, và bùn lầy chỉ dám níu lại những dấu chân mạnh mẽ.
Người đàn ông đến gần hơn, và chàng có thể nhìn thấy từng thớ cơ bắp rắn rỏi nổi lên bên dưới lớp da rám nắng của anh ta. Anh ta la to, quát tháo bằng thứ tiếng gì đó rất lạ, nhưng chàng không bỏ qua sự lo lắng đầy ắp trong đôi mắt đó. Điều đó khiến chàng tạm thời không chĩa mũi kiếm về phía người lạ mặt.
Đến lúc chạy tới bên dưới tán cây cổ thụ nơi chàng đang đứng, người đàn ông mới dừng lại, chống tay lên gối rồi thở hồng hộc. Anh ta xúc động vì nhẹ nhõm, vừa thở vừa liến thoắng một tràng dài. Chàng im lặng một khắc, sau đó nhún vai:
“Xin lỗi, tôi nghe không hiểu.”
Người đàn ông hoang mang không biết phải làm sao, bởi vì anh ta cũng không hiểu lời chàng nói. Hai người cứ thế nhìn nhau, một người ngửa cổ, một người cúi đầu, cố gắng giao lưu bằng ánh mắt.
Có lẽ là giao lưu thành công, hoặc cũng có thể là đôi mắt trong veo và chân thành của người đàn ông đã thuyết phục chàng, chàng quyết định đi theo họ. Người đàn ông không đi một mình, anh ta có nhóm. Chàng và bọn họ hội họp dưới một tán chuối rừng, đồng thời biết được tên của người đàn ông. Anh ta tên là A Khao.
Mưa vẫn dầm dề không tạnh. Trời dường như muốn tưới nước cho vườn cây của ngài đến khi đất hóa thành bùn thì mới thôi. Mặt trời đã trốn đi đâu đó từ sớm, và rừng thì tối đen như mực. Đoàn người không dám trú chân dưới những gốc cây cổ thụ. Họ cắt lá chuối che mưa rồi đi tìm một mảnh đất bằng, dọn sạch đá vụn, cây con và bụi rậm, rồi chọn bốn gốc cây to bằng bắp chân để giăng da thú che mưa. Họ không buộc trực tiếp mảnh da thú vào gốc cây mà dùng cọc phụ, một đầu cắm chặt xuống đất, đầu còn lại buộc vào gốc cây đã chọn. Sau khi buộc như vậy, nước mưa men theo các tán lá rồi chảy dọc thân cây xuống đất mà không thấm vào tấm da. Có người treo mấy cái ống tre vào bên hông cọc phụ. Chờ trong chốc lát, ai cũng có nước mưa để uống.
Điều chàng sầu nhất vẫn là lửa. Mồi lửa của chàng đã thấm nước, và cành lá khô thật khó tìm. Có điều A Khao và đồng bạn dường như đã quen đối phó cái thời tiết này. Gùi của họ có than và củi khô, còn A Khao thì đốt lửa bằng một loại nhựa cây chàng không biết tên, bọc trong lá chuối⁽¹⁾. Xong xuôi, anh ta lại đeo cung, vác xà gạc lần vào màn mưa, để chàng ở lại với mọi người.
Lửa cháy, ánh sáng bùng lên giữa cánh rừng tăm tối khiến chàng không nhịn được mà nhích lại gần. Lửa ấm áp để cho chàng thật thoải mái, an tâm. Chàng thở một hơi dài nhẹ nhõm rồi lục túi, chia cho mọi người quả rừng do mình hái được.
Mọi người ngồi quây quần xung quanh đám lửa, ai nấy đều là thanh niên. Bọn họ cường tráng, dẻo dai, đôi mắt sáng ngời và không xấu hổ chỉ vì mặc có mỗi chiếc khố. Bọn họ tự do, hào phóng, cố gắng bắt chuyện với chàng bằng thái độ niềm nở nhất, và đưa cho chàng thứ tốt nhất mà họ có. Có người đưa chàng ống điếu. Có người dúi cho chàng thuốc lá. Có người mời chàng uống rượu. Còn có người đưa cho chàng cả một tấm chăn.⁽²⁾
Khi chàng hớp đến ngụm rượu thứ năm thì A Khao trở về. Có lẽ là vì trời mưa gió, nên mãi đến khi A Khao chui vào lều, chàng mới ngửi thấy một mùi hôi nồng nặc. Mọi người lao nhao phàn nàn. A Khao bất đắc dĩ trả lời, lắc đầu, rồi lại trả lời. Chàng nhoài người nhìn ra phía ngoài lều, ngóng xem hai chiến lợi phẩm mà A Khao vừa săn được: Một con gà rừng, thịt ngon nhưng so với sáu gã trai thì thật ít, và một con gì đó chàng không biết tên. Nó trông như con chó lai lợn, cái miệng thuôn dài và cái tai bé xíu, nhưng dị hợm nhất vẫn là mùi hương độc đáo của nó, hôi đến nỗi chàng suýt ngất.⁽³⁾
“Không, tôi… Tôi không ăn.”
Chàng xua tay từ chối. Bốn người bạn của A Khao cũng lùi tránh xa. Cuối cùng, con vật hôi thối kia bị A Khao quẳng đi thật xa. Sáu người đàn ông chia nhau một con gà, mấy củ khoai nướng, mấy quả trái cây rừng, cùng với lương khô do chàng mang theo.
No nê, A Khao lại bận rộn vót tên. Mọi người rảnh rỗi, cũng giúp A Khao một tay. Vót tên xong, A Khao lấy ra một cái ống tre, bên trong chứa thứ chất lỏng quánh sệt như nhựa cây⁽⁴⁾. Lại thêm một thứ chàng không biết tên, nhưng khi nhìn thấy A Khao cẩn thận bôi nó lên đầu mũi tên, chàng đã biết công dụng của nó. Bảo sao lúc nãy, sau khi trúng tên thì con hổ kia loạng choạng như kẻ say. Thì ra là bởi mũi tên bôi độc.
Thấy chàng hứng thú nhìn ống độc không rời mắt. A Khao đưa nó về phía chàng, nói cái gì đó. Chàng không hiểu, xua tay, rồi lại không cam lòng, thử chỉ vào ống tre, quẹt tay giả vờ cắt ngang. A Khao cười xòa, vỗ vai chàng cái đốp. Rồi A Khao nhìn xung quanh, không tìm thấy tre hay trúc. Anh ta bèn chặt một khúc gỗ nhỏ cỡ cổ tay, vát phẳng hai mặt. A Khao đốt vùng lõi của khúc gỗ bằng một cục than nhỏ, cục này tàn thì thay cục khác, mãi đến khi một mặt gỗ lõm xuống thành một hình tròn trặn mới ngưng. Vậy là chàng có một ống gỗ mới toanh để đựng chất độc, được bịt kín bằng một lớp da thú và mặt gỗ đắp lên trên cùng, cố định bằng dây.
Chàng cất kỹ món quà quý giá, để cách những túi nước và túi lương thực thật xa. Những người còn lại bắt đầu cất tiếng hát, đối đáp nhau bằng thứ ngôn ngữ chàng xa lạ nhưng nghe thật hay. Nó khiến tiếng mưa rừng không sầu thảm và chàng lữ khách lạc bước trong rừng chẳng còn thấy đơn côi. Tiếng nhái không còn điếc tai, tiếng ễnh ương trầm, dày êm ái, và tiếng thạch sùng đêm khuya trở thành điểm nhấn của cả bản nhạc dài. Đêm hôm ấy, chàng đã ngủ thật say, thậm chí, chàng còn mơ một giấc mơ dài. Thần linh dường như để mắt tới chàng. Họ ghé thăm chàng trong giấc mộng, kể cho chàng nghe truyền thuyết về thanh kiếm thần của rừng Thiêng, bằng ngôn ngữ đầy giai điệu du dương như tiếng hát ca mà khi tỉnh giấc, chàng sẽ không tài nào hiểu nổi. Những con vẹt sặc sỡ hát lên bài trường ca, và vua khỉ chỉ tay về phía những ngôi sao xa, và loài người biết đi theo dấu vết của ngân hà, vào sâu trong rừng thẳm. Ở nơi ấy, thần Sấm ban cho họ lửa, thần Rừng ban cho họ gỗ, thần Mưa ban cho họ nước, còn thần Thợ rèn thì chỉ cho họ cách nấu chảy những cục đá đen nằm vương vãi khắp nơi trên đất. Đó là sắt, thứ cứng hơn cả đồng.⁽⁵⁾
Chàng giật mình tỉnh giấc, nhìn thấy đầu tiên là ánh sáng mờ đục lọt qua kẽ lá. Một người bạn mới vừa gỡ tấm da thú xuống. Mưa đã tạnh từ lúc nào không hay, chỉ còn nước nhỏ giọt từ cành cao xuống tán lá thấp, rơi một ít lên vầng trán cao của chàng. Chàng đứng dậy, vươn vai. Sương phủ đầy mặt đất, quấn quanh từng thân cây đẫm nước, vương cả lên chăn, lên tóc của chàng, để cho chúng ướt át và rừng dường như nhòe đi, chìm hết vào trong một màu xanh khói mông lung.
Con ngựa đã thức, cúi đầu nhấm nháp mấy vạt cỏ non mới trồi lên sau mưa. Chốc chốc, nó lại rung cái bờm dài như muốn giũ bỏ cái ẩm lạnh của đêm. Bếp lửa vẫn còn cháy, những chàng trai đã thay phiên nhau giữ lửa suốt đêm. Khi rừng còn chưa tỉnh giấc, A Khao đã dạo một vòng xung quanh, săn được hai con thỏ rừng và vài quả trứng chim. Những người còn lại đi đào măng. Họ chia cho chàng hai củ.
Chàng đập trứng chim vào một cái lá to, gói kín rồi hơ trên lửa. Không lâu sau, mùi trứng thơm lừng cả cánh rừng. Chàng đưa trứng cho X, rồi chỉ tay về phía Tây Nam. A Khao hiểu ý chàng, chỉ tay hướng về phía Đông. Chàng thở dài, tiếp tục đập trứng, nướng chín rồi chia cho từng người một. Sau bữa ăn này, bọn họ sẽ chia ra hai ngã.
“Nếu bị lạc vào mùa mưa, mây mù che khuất không nhìn thấy mặt trời thì cứ tìm một gốc cây to. Phía nào rêu mọc nhiều thì đó là hướng Đông.”
Có một người già thông thái đã dạy chàng điều đó. Giờ đây, sâu trong rừng thẳm, chàng đứng cạnh gốc bằng lăng to, nơi rêu mọc xanh và dày nhất, đau đáu nhìn theo hàng người đang khuất dần sau những bóng cây. Họ nhanh nhẹn, tự do, nhưng không rời khỏi khuôn phép. Đã có một thoáng, chàng muốn đi theo bước chân của họ, bỏ áo, bỏ quần, rời đi những thứ gò bó bấy lâu, để mà sống một cuộc sống nguyên sơ nhất, thỏa sức vẫy vùng giữa vùng rừng núi hoang vu này, vui thú trong cái chốn tự nhiên tinh khôi này.
Thế nhưng, chàng dừng lại.
Con ngựa gầy nhìn chàng với ánh mắt đa mang. Nặng trĩu đến nỗi chàng bật cười tự giễu:
“Lòng dạ rối bời, nhìn đâu cũng thành ra một mớ bùi nhùi!” Chàng xoay người, dắt ngựa, “Thôi, đi.”
***
Sau giấc mơ hôm ấy, chàng dường như học được cách làm bạn với rừng. Chàng hỏi đường từ những mảng rêu, tránh lũ thú săn mồi bằng cách nép dưới những cánh gió. Chàng lắng nghe chim hót vào mỗi sáng sớm, kết bạn với lũ vượn suốt mấy đoạn đường dài. Mấy con vượn ấy chẳng hề sợ người, gan chúng to và tính tò mò cũng cao không kém.
Thỉnh thoảng chàng còn gặp một cái cây to, lớp vỏ cây ở vị trí cao hơn đầu người bị bào xơ xác. Mới đầu chàng chưa biết vì sao, mãi đến khi gặp một đàn voi rừng dạo ngang qua, có con voi cọ lưng vào thân cây to gãi ngứa thì chàng mới hiểu. Cũng là lúc đó, chàng biết ai đã tạo ra những con đường mòn trải rộng khắp cả khu rừng. Những con voi đi theo đàn, nghiêm chỉnh xếp thành một hàng dài, nối đuôi nhau giẫm rung mặt đất, xô đổ những cây non, tạo thành một con đường mòn rộng rãi.
Chàng buông dây cương ngựa, bước từng bước cẩn thận đến gần con voi to lớn nhất. Chàng nghiêng mình cúi đầu, dốc hết lòng chân thành vào hai tiếng:
“Cảm ơn.”
Con voi đầu đàn sừng sững như một ngọn đồi nhỏ, nhìn ngắm chàng bằng đôi mắt trầm sâu, lặng như giếng cổ soi bóng mây. Chàng ngẩng đầu nhìn thẳng vào đôi mắt ấy, một đôi mắt mang nặng ký ức của nghìn mùa lá rụng. Đây là đôi mắt của kẻ đã hiểu rõ quy luật sinh tử của chốn đại ngàn, và chàng bỗng dưng nảy ra cái ý nghĩ rằng con voi hiểu được lời chàng nói.
“Ta nguyện đi khắp bốn phương trời, chỉ để tìm kiếm lưỡi kiếm của thần linh, mong cứu vớt giống nòi khỏi lửa đao binh.”
Chàng từ từ quỳ xuống, mở ra tấm bản đồ cũ nát đã nhuốm màu năm tháng, nâng lên ngang trán, dâng trước voi đầu đàn. Chàng nói, giọng trầm mà rắn rỏi.
“Xin ngài, hỡi vương giả thông tuệ của đại ngàn. Nếu ngài rõ tung tích nơi kiếm thần đang say ngủ, xin rũ lòng thương chỉ lối cho kẻ khẩn cầu này. Làm ơn.”
Mặt trời đứng bóng. Ánh sáng ban trưa rót xuống cánh rừng thưa như thác bạc, chiếu lên tấm lưng to lớn của voi đầu đàn, khiến da nó loang loáng như được điểm to bằng những mảnh vàng. Cả khu rừng tràn ngập những đóa hoa nắng, rực rỡ huy hoàng. Voi đầu đàn nhấc đầu lên cao, cặp ngà cong đón lấy nắng trưa ấm áp. Đôi mắt voi khẽ chớp, phản chiếu hình bóng chàng lữ khách nhỏ bé trước uy nghi của rừng già. Đoạn, voi đầu đàn quay bước, mỗi bước chân vang lên là cả cánh rừng khẽ rùng mình. Cả đàn voi nối đuôi nhau tiến vào khoảng rừng sáng lòa, bụi lá tung lên lấp lánh như vảy vàng. Chàng bị bỏ lại tại chỗ cũ, chỉ đành thất vọng dõi theo.
Bỗng, có một con voi non tách đàn quay lại. Nó đến gần chàng, dùng vòi khẽ quấn quanh cánh tay chàng lữ khách, kéo chàng đi theo. Chàng nhanh tay kéo theo dây cương ngựa, trái tim đập rộn ràng theo nhịp của những bước chân khổng lồ. Đàn voi bước đi giữa biển nắng vàng như một đoàn quân khổng lồ, tiếng chân voi trầm vang như những nhịp trống cổ xưa. Voi dẫn chàng băng qua những con suối cạn, nước vỡ tung thành những tia sáng li ti. Voi đưa chàng ngang qua những vách đá đỏ thẫm, nơi mà chàng cứ ngỡ rằng đã từng là chiến trường của các vị thần cổ xưa. Voi lại dắt chàng băng qua cánh rừng thưa, vào sâu trong rú. Tiếng gió dần lặng, chỉ còn lại tiếng chân voi trầm trầm và tiếng lá khô vỡ vụn dưới bước chân chàng. Không gian trước mắt bỗng tối dần. Tán cây trở nên rậm rạp và giao nhau kín mít, nắng chỉ còn là những vệt sáng run rẩy trên đất ẩm.
Voi đầu đàn dừng lại, cả đàn voi xếp hàng sau lưng nó, tất cả đều lặng im. Trước mặt chàng là một bức tường mà rừng rậm dựng nên từ cây cối. Rễ cây bện vào nhau thành từng dải uốn lượn, bụi dây leo nối nhau rủ xuống đất, chằng chịt như màn che. Chàng phải nhìn kỹ lắm mới tìm ra được một lối vào.
Con voi đầu đàn dùng vòi đẩy chàng nhích vài bước về phía rừng cây. Nó khẽ kêu một tiếng, rồi quay đầu dẫn cả đàn rời đi. Con voi con lưu luyến không muốn rời, quấn vòi quanh cổ tay chàng muốn kéo chàng đi theo. Chàng vuốt nhẹ trán voi con, cảm nhận hơi ấm qua lớp da thô ráp của con vật to lớn. Chàng cũng không nỡ rời xa nó. Có một thoáng, chàng đã nghĩ liệu có nên mang theo con voi rời khỏi đại ngàn, trở về quê hương?
“Nhưng không.” Chàng lắc đầu, gạt phăng ý nghĩ đó. “Voi tự do.” Chàng thầm thì, cúi mình hôn nhẹ lên trái voi con. “Tao sẽ không quên mày đâu, voi ơi. Tạm biệt.”
Rồi chàng nắm lấy dây cương, dắt ngựa tiến vào bên trong. Ở nơi đây, từng tán cây trĩu xuống như nghiêng mình chào đón kẻ lạ bước vào giấc mơ đang ngủ dở của rừng Thiêng. Tiếng gió không còn quanh quẩn trên mấy vạt lá cao nữa mà trực tiếp lùa thẳng vào lồng ngực của chàng, để cho nó giật mình đập từng hồi vội vã. Càng đi sâu vào bên trong, chàng càng cảm nhận được rõ hơn về cái ranh giới giữa “bên ngoài”, nơi loài người mãi chạy vội đua với thời gian, đấu tranh nhau giành giật từng mảnh đất con sông, và “bên trong”, một miền vắng lặng đang níu giữ ký ức của đất trời. Rừng kể lại cho chàng nghe bằng cách riêng của nó: Qua tiếng nước nhỏ giọt từ cành cong, qua tiếng khua rất khẽ của một nhánh khô gãy, qua tiếng chạm mỏng manh khi lá rơi xuống đất, qua cả những hình thù kỳ dị của dây leo đan chéo như chữ viết tay của thánh thần.
Chàng dắt ngựa len lỏi qua những thân cây cổ thụ, bước khập khiễng tránh đi những cái rễ to oành, và rồi bất chợt, trong rừng bỗng xuất hiện một khoảng trống hiếm hoi. Trước mắt chàng, khu rừng mở ra như một cái bát úp khổng lồ. Bốn bề cây cối cao vút, cành lá đan vào nhau thành hình vòm tròn, che khuất bầu trời, chỉ để lọt mấy vệt sáng nhạt. Mặt đất không dốc nhưng gồ ghề, cỏ mọc lưa thưa, xen giữa những tảng đá nhỏ che kín rêu phong là vài bông hoa rừng đang khoe sắc. Ngay vùng trung tâm, nơi ánh sáng tập trung thành cột giống cái trụ chống lên bầu trời, có một thanh kiếm cổ xưa cắm thẳng xuống đất. Lưỡi kiếm đã chìm xuống hai phần ba, chỉ còn chuôi kiếm trồi lên với những vết gỉ xanh, loang lổ vết thời gian.
Chàng hít một hơi dài, bước chân đến gần, ánh mắt không rời khỏi thanh kiếm thần. Nếu là vào một ngày bình thường, tại một nơi chốn bình thường, trong một khoảnh khắc thường nhật và chàng vô tình lướt ngang qua một thanh kiếm hư hỏng như vậy, có lẽ chàng sẽ chẳng dừng lại đâu. Thế nhưng sau bao ngày vất vả bôn ba, giữa chốn rừng thiêng sâu thẳm và u tịch này, chàng không dám khinh thị dẫu chỉ là một tia ý nghĩ.
Chàng quỳ gối xuống đất, đưa tay chạm vào chuôi kiếm, cái lạnh lập tức truyền từ lòng bàn tay đến tận sống lưng. Ngựa của chàng khẽ khịt mũi, dường như nó cũng đang vì chàng mà căng thẳng sầu lo. Chàng thầm cầu khấn tổ tiên phù hộ, nắm chuôi kiếm, khẽ rút.
Thanh kiếm bất động.
Chàng khẽ thở ra rồi mím môi, năm ngón tay siết chặt, gồng cả cơ thể để cố rút thanh kiếm ra ngoài. Thế nhưng vô ích. Thanh kiếm vẫn vững chãi như đã hóa thành một phần của đất. Chàng rút không ra.
***
Đêm buông. Chàng chọn một chỗ khô ráo ở gần thanh kiếm, nhóm bốn đống lửa ở bốn bên, bản thân chàng thì nằm vào giữa. Sương dần dày hơn, và le lói những đốm sáng lân tinh trên thân cây cổ thụ, bao vây lấy chàng tạo nên một thành trì huyền ảo. Chàng nằm ngửa trên đống cỏ khô, nhắm mắt lắng nghe tiếng rừng thở. Xa xa là tiếng ễnh ương trầm nặng, gần hơn là tiếng dế gáy lẫn với tiếng lá ướt cọ vào nhau. Con ngựa gầy vẫn đang chóp chép nhai cỏ, thỉnh thoảng khịt mũi báo cho chàng biết không có kẻ xâm lấn.
“Ngày mai, mình chắc chắn sẽ thành công.” Chàng tự nhủ với lòng, rồi dần thiếp đi trong khúc hát ru dịu dàng của rừng.
Chàng cứ thế mà ngủ một giấc yên bình tới hừng đông. Sáng ngày thứ hai, chàng ăn nốt miếng lương khô cuối cùng, uống sương đọng lại trên những phiến lá to, sau đó chặt cây rồi khiêng đá, làm một cái đòn bẩy thô sơ. Chàng thử một lần rồi lại hai lần, mồ hôi ròng rã ướt đẫm lưng áo, chảy vào cả lòng bàn tay rướm máu khiến cho chàng đau xót không thôi, thế nhưng thanh kiếm chỉ rung khẽ rồi đứng im, như thể nó đã cắm vào tận xương sống của đất trời. Mãi đến chiều, chàng đành phải buông tay, đi vòng vòng tìm đồ ăn lấp bụng.
“Làm thì làm, trước hết phải có cái bụng no.” Chàng không thất vọng buồn rầu vì rút kiếm không lên, cười đùa hí hửng với con ngựa.
Con ngựa khịt mũi như trả lời chàng, sau đó cắm đầu lủi về một hướng. Nó dừng chân trước một khoảng đất mọc đầy những cây thấp xanh mướt, vài chỗ còn điểm xuyết một chùm hạt đỏ tươi. Con ngựa hất đầu, làm bộ dạng cào đất. Chàng đoán con ngựa muốn chàng đào cho nó mấy cây mang về ăn. Chàng cười khẽ, không từ chối mà quỳ xuống, đào lên một củ sâm dài.⁽⁶⁾
“Nhân sâm ư?” Chàng thảng thốt rồi nhìn lại một vùng đất rậm rạp toàn là lá sâm, lắp bắp, “Úi trời, cái mỏ vàng!”
Tối hôm ấy, chàng bắt được một con chim to, vặt lông rồi nhét thêm sâm cắt lát vào trong bụng nó, nướng ăn. Bao nhiêu mệt nhọc đều tan biến hết, chàng ngủ một giấc sâu, ngon lành say sưa. Chưa bao giờ chàng được ngủ một giấc ngon đến thế. Trong giấc mơ, chàng thấy mình như đang tan ra, lan đến gần thanh kiếm rồi cùng nó hòa làm một. Chàng là kiếm mà kiếm cũng là chàng, rời đi đất, bay lên cao, mặc sức ngao du khắp núi non rừng thẳm.
Chàng mơ đến tận lúc thanh kiếm rời đại ngàn bay ra biển rộng mới giật mình ngồi dậy. Con ngựa gầy nằm ở một bên thở khì, cười nhạo chàng trộm lười ngủ tới tận giữa trưa. Chàng nhún vai, ngậm một lát sâm rồi đi cắt dây leo rừng, xoa nó thành một sợi dây dài rồi buộc quanh thanh kiếm, cố sức kéo. Quả nhiên, giống như những lần trước, thanh kiếm vẫn không động đậy mảy may. Chàng hụt hẫng quẳng dây sang một bên.
“Thôi, nghỉ. Đi kiếm gì bỏ bụng đã.”
Lần này, chàng không đi tiếp đường cũ mà đi theo hướng ngược lại. Qua chừng gần hai lần nghỉ chân, chàng rốt cuộc tìm thấy một cái hồ trong veo, nối tiếp với một con suối nho nhỏ gập ghềnh. Trong hồ có rất nhiều cá, nhưng chúng không tung tăng bơi lội mà lờ đờ mệt mỏi. Chàng chỉ cần vớt bằng tay không, dọn hết cả hồ cũng chẳng phải nói chơi.
“Quái thay, chẳng lẽ mấy con cá này đột ngột mê ngủ giống ta?”
Cá trong hồ lạ như vậy, chàng nào dám ăn bậy. Nhưng chàng cũng tò mò, bèn đi một vòng quanh hồ, lại đi dọc bờ suối tìm hiểu một chút. Rồi chàng phát hiện ra một loại cây mọc rất nhiều ở ven hồ ven suối. Thân cây sần sùi, cành vươn ngang như cố đón lấy ánh nắng hiếm hoi lọt xuống từ những tán cây phía trên. Xen lẫn giữa những chiếc lá dày và xanh bóng là những chùm quả tròn căng màu vàng cam, treo lơ lửng trên cành như những chiếc lồng đèn be bé xinh xinh. Thế nhưng lạ thay, trái cây căng mọng như thế, vậy mà lại không có con chim rừng nào bén mảng đến gần. Lũ chim chỉ lượn qua mà không đậu xuống, ngó lơ màu vàng óng xinh đẹp chẳng thèm đoái hoài.⁽⁷⁾
Chàng thử dùng hai thanh gỗ nhỏ kẹp xuống một chùm quả, đưa nó đến bên miệng con ngựa.
“Nào bạn tôi ơi, há mồm.”
Con ngựa ngó lơ lời chàng mời mọc, bĩu môi phun nước miếng.
Vậy là chàng biết, thứ này có độc. Chàng suy nghĩ một hồi, quyết định tìm một cây non, đào cả đất nơi nó bám rễ rồi mang về.
“Thứ này có diệu dụng. Thầy lang quê mình ắt là thích lắm đây.” Chàng vừa dắt ngựa vừa tặc lưỡi nói. Còn về bữa ăn chiều, chàng không dám ăn cá, cho nên chàng làm một cái ná, bắn chim.
“Chiều nay mình lại ăn chim nướng.” Chàng phấn khởi nói với người bạn đường của mình.
Chàng hái vài quả trái dại, trông khác lạ chàng chẳng biết nổi tên. Chàng chỉ chọn những trái đã bị chim mổ qua, và không có dòi. Chàng còn tìm thấy cả măng non và một mảnh đất mọc đầy nấm. Thế nhưng chàng chỉ hái măng. Chàng không hiểu loài nấm, chưa có con thú nào chỉ cho chàng cách chọn nấm, thế nên, chàng không dám ăn nấm.
Đêm nay may mắn không có mưa. Trăng tròn vành vạnh treo trên ngọn cây cao nhất của rừng, soi sáng từng dấu chân của chàng đi từ đống lửa trại đến bên cạnh kiếm thần. Chàng ngồi bệt xuống đất, duỗi chân chống tay, ngửa đầu ngắm trăng, miệng còn ngậm chơi một nhánh cây con.
“Dân nước tôi khổ lắm, hôm nay thì bị voi giày, ngày mai lại chịu ngựa xéo, lửa bỏng dầu sôi mỗi ngày mỗi gặp. Đứa nào cũng như đứa nào, cổ một cái gông, hai tay hai chân hai cái xiềng…”
Chàng kể cho kiếm thần nghe về nỗi khổ của dân tộc chàng, về nỗi đọa đày của đất nước. Chàng kể đến miệng đắng, lưỡi khô mà vẫn chưa xong. Chàng liếm môi, nhìn đăm đăm vào thanh kiếm cổ.
“Tôi van xin ngài, làm ơn rũ lòng thương.”
Chàng vươn tay nắm lấy chuôi kiếm, rút, nhưng không lên. Thanh kiếm vẫn không nghe lọt lời cầu khẩn của chàng. Chàng cúi đầu, lặng thinh. Trăng khẽ khàng đắp lên người chàng một tấm trăng vàng mỏng, không ấm áp mà lạnh lẽo như lòng chàng bây giờ. Chàng không để ý đến trăng, nâng cùi chỏ quẹt ngang mắt rồi đứng dậy, lầm lũi đi đến nằm xuống cạnh con ngựa. Chàng co người như con tôm chết trên cạn, đôi tay tự ôm lấy chính mình, rúc sát vào bụng nó. Con ngựa gầy ủi nhẹ cái mũi của nó vào cổ chàng. Thấy chàng không nhúc nhích, nó im lặng trong chốc lát rồi xoay đầu, tiếp tục nhai cỏ ngắm trăng.
Đêm nay, nó lại canh gác cho chàng ngủ.
___
Rồi những ngày tiếp theo, thời gian như dần chậm lại. Chàng dần vui tươi trở lại, hớn hở cười đùa với con ngựa, thì thầm trò chuyện cùng kiếm thần. Thế nhưng, chàng không đếm ngày nữa.
Chàng xây một cái lán nhỏ đủ để tá túc, bỏ áo, cởi giày, giặt sạch rồi gói hết trong túi hành lý, cất vào lán. Chàng học cách đi chân trần trên đất rừng, cảm nhận từng đoạn rễ gồ ghề, từng cọng cỏ mềm dưới lòng bàn chân, rồi cứ thế dắt ngựa đi lang thang trong rừng. Ban ngày lo kiếm cái ăn, đêm đến lại trở về bên cạnh kiếm thần.
“Chắc là kiếm thần sợ người lạ.” Chàng vừa hì hục đào hố vừa nói giỡn với con ngựa gầy. “Biết đâu ở chơi lâu, quen thuộc hơn chút, nó sẽ chịu đi theo ta cũng nên.”
Hôm nay, chàng lại đến thăm cái hồ to có lũ cá lười mê ngủ. Chàng trở lại nơi này không phải vì cá mà là vì cái tổ ong to bằng cái nia đang treo lủng lẳng trên cái cây to ở gần đó. Chàng muốn ăn mật, thèm khát chút ít ngọt ngào hiếm hoi của rừng xanh, thế là chàng đánh bạo một phen. Chàng muốn hun khói cho lũ ong bay đi rồi trèo lên cây lấy tổ ong xuống.
Có điều lần lấy mật này không mấy suôn sẻ, bởi vì trời đang nắng ráo đột nhiên chuyển thành âm u. Gió ngậm hơi sương thổi da chàng rét buốt, thổi tung cả mái tóc xác xơ của chàng. Không khí trong rừng dường như đọng lại, chàng ngồi quỳ bên một cái hố nông, ngơ ngác nhìn mây đen vần vũ trên đầu. Chàng thầm thì:
“Sắp mưa rồi.”
Mưa rừng đến thật nhanh, nhưng lần này không ào ào như thác đổ mà chậm rãi rơi xuống từng hạt to, rơi lộp độp trên lớp lá khô chất dày trên đất. Chàng điều chỉnh hơi thở cho thật nhẹ, tay siết chặt chuôi kiếm, yên lặng chờ đợi điều gì đó đang tiến đến. Ngay khi hạt mưa to thứ nhất sắp chạm đến bờ vai, chàng đột nhiên bật người tránh sang một bên, vung kiếm chém mạnh xuống. Tiếng ngựa hí và tiếng vật nặng rơi xuống đất vang lên cùng lúc, theo sau đó là một tiếng hổ gầm vang dội. Chàng liên tục bước lùi mười mấy bước dài. Con hổ không ngó ngàng đến con ngựa gầy mà đuổi sát theo chàng, vồ hết cú này đến cú khác. Chàng nào dám đỡ trực tiếp một cú vả của vua rừng rậm, chỉ có thể chật vật tránh né, đồng thời tìm cơ hội chém trả mấy nhát.
Chàng nhận ra con hổ này. Nó là con hổ từng tập kích chàng vào một ngày mưa, nhưng khi ấy mưa to và đổ xuống xối xả hơn hôm nay nhiều. Vết thương nơi bả vai của nó chỉ vừa mới liền da. Sau vài ba cú vả, nơi đó đang chuyển dần từ hồng nhạt sang có tia đỏ ẩn hiện. Chàng cũng chọn nơi đó mà khi chém, khi đâm. Có điều trước khi kịp chém vỡ vết thương cũ của con hổ, cánh tay phải của chàng đã bị nó vồ trúng một vố.
Chàng đau đớn kêu rên, cánh tay buông thõng xuống, kiếm cũng để rơi trên mặt đất. Con hổ chồm lên, há miệng muốn cắn đứt yết hầu của kẻ thù. Nó chiến đấu hăng máu đến nỗi quên mất rằng trên chiến trường vẫn còn một kẻ thù khác. Con ngựa gầy từ nơi xa phi nhanh đến, húc con hổ tông mạnh vào thân cây to bên cạnh. Cái cây già rùng mình rung mạnh, lá cây ào ạt rơi xuống, xen lẫn vài ba con ong hoảng loạn bay tới lui. Chàng giật mình ngẩng đầu, phát hiện ra con hổ đang nằm ngay bên dưới tổ ong.
Nhìn con hổ tát lui ông bạn già của mình, chàng cắn răng chộp lấy thanh kiếm bằng tay trái, cố kìm cơn đau mà nghiến răng ưỡn ngực, dồn sức ném nó lên cao. Thanh kiếm phóng đi như một mũi lao, cắt rụng tổ ong. Tổ ong to rơi trúng ngay đầu hổ rồi vỡ. Đàn ong túa ra như một đám mây đen, phẫn nộ bu kín con hổ, chích thẳng vào tai, vào mắt nó. Chúa sơn lâm gầm lên đau đớn, nó lăn lộn trên đất, quào cào chính thân mình nhưng chẳng thể xua đuổi được bao nhiêu con ong.
Con ngựa gầy không dám đối mặt với bầy ong. Nó vội vàng kéo chàng đi, nín thở núp dưới những bụi cây, tránh xa bầy ong giận dữ.
Ở phía bên kia, con hổ đã tuyệt vọng đến nổi phóng thẳng xuống hồ nước, nơi những con cá vẫn đang lờ đờ ngái ngủ. Mặt nước nổ tung bọt trắng, sóng dồn về phía bờ làm ướt cả một khoảng đất, cũng xua đi một phần của bầy ong. Con hổ ngụp rồi lại nổi, cố bơi ra xa hòng thoát khỏi bầy ong, thế nhưng không bao lâu sau, thân hình lực lưỡng của nó bắt đầu loạng choạng. Nếu nó không mau chóng lên bờ, nó rồi cũng sẽ như những con cá kia, trở nên lờ đờ mê ngủ. Nhưng hổ không thể hô hấp trong nước như cá. Nó mà ngủ quên dưới hồ thì nó chết chắc.
Thời gian chậm chạp trôi, mưa dần nặng hạt, gió vù vù hất tung cành lá, đồng thời xua tan cơn giận của đàn ong. Con hổ đang cố hết sức để bơi vào bờ, đôi mắt nó dần rã rời, và cơ bắp đang dần trở nên cứng đơ. Nó không cam lòng kêu lên một tiếng nức nở, khi vào tai chàng lại hóa thành một tiếng khóc bi thương. Tim chàng nhẹ thắt, như vừa bị ai nắm lấy rồi siết khẽ. Chàng cắn môi rời khỏi bụi rậm, khập khiễng đi đến bờ hồ. Chàng nhìn đăm đăm vào con hổ đang dần lịm đi trong nước rồi đột nhiên cúi người, nhấc lên một thân cây mục. Chàng đội mưa bước xuống nước, đưa đầu thân cây còn lại đến bên con hổ để cho nó bám vào, sau đó gắng sức kéo.
Chàng muốn cứu con hổ.
Mưa to như trút nước, đổ xuống ào ào lau sạch vết máu trên cánh tay phải của chàng, để cho vết thương dần dần sưng lên, trắng bệch. Chàng ngã ngồi xuống đất, chống tay thở hồng hộc. Chúa sơn lâm nằm cách chàng không xa, nước chảy ròng ròng xuôi theo bộ lông vằn, đọng lại thành vũng to. Nó thở thoi thóp, vết thương ở phần bả vai đã tét miệng, sâu đến tận xương, đôi mắt đã không còn nét hung dữ ban đầu. Chàng nhìn nó, cười hỏi:
“Tao với mày làm huề, nhé?”
Con hổ khịt mũi, nhắm mắt, không đếm xỉa tới chàng. Chàng cũng không mong con hổ sẽ trả lời mình, lảo đảo đứng dậy, dắt ngựa trở về lán. Tay phải của chàng đã tê rần, nếu không băng bó kịp thời, có lẽ chàng sẽ trở thành lãng khách cụt tay mất.
Hôm ấy, trời mưa đến tận khuya. Chàng nằm trong lán cùng với con ngựa già, cho rằng phải nhịn đói trọn một ngày thì bên ngoài bất ngờ vang lên tiếng sột soạt. Chàng mở cửa nhìn xem, chỉ thấy một con gà rừng bị cắn chết nằm trên sàn. Chàng nhặt gà rừng lên xem xét vết cắn, nhận ra là dấu răng của loài hổ thì vui vẻ cười vang. Đêm ấy trời không trăng cũng không sao, nhưng đôi mắt chàng rạng rỡ át cả ánh sao.
Chàng ngủ một giấc thật sâu, ngon lành đến tận khi có tiếng cào cửa vang lên. Chàng choàng tỉnh, ngáp một cú dài, vươn tay trái vặn người rồi mới ngồi dậy mở cửa. Lần này, chàng nhìn thấy con hổ.
Vị vua nay đã khỏe lại, oai vệ ngồi bên cạnh kiếm thần, híp mắt nhìn chàng. Nó vung vẩy cái đuôi dài, chân trước khẽ đẩy cái tổ ong to và một nhúm lá xanh⁽⁸⁾ để cho chàng chú ý đến. Sau đó, con hổ khẽ nghiêng sang một bên, để lộ ra phần bị thương. Nơi đó giờ đây đắp một lớp lá nát, còn có màu mật vàng sánh loang loáng dưới ánh mặt trời. Con hổ mang thuốc trị thương đến cho chàng.
Hôm ấy chàng vui vẻ lắm, bởi vì bạn mới và mật ong ngọt ngào, thứ nào chàng cũng thích.
***
Chàng ở lại nơi này không biết qua bao nhiêu ngày tháng. Ban ngày thì chàng đi săn, hoặc thám hiểm rừng rậm cùng bạn hổ. Đêm đến, chàng lại trở về lán, đốt một đống lửa to, ngồi bên cạnh kiếm thần rồi trò chuyện với nó. Mãi như thế, đến một buổi sáng đẹp trời, sau một đêm mưa ướt át, chàng đứng lặng thinh bên cạnh thanh kiếm thần, không còn nóng nảy thử nhấc nó nữa. Trong tay chàng là mấy chiếc lá to, bị kiến ăn lên mấy vệt ngoằn ngoèo như chữ. Đó quả thật là chữ, ngày hôm qua vừa được chàng viết lên bằng mật ong:
“Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ.”⁽⁹⁾
Chàng cầm chiếc lá to bị kiến ăn thủng lỗ chỗ, xuyên qua khe hở nhìn xuống mấy bông hoa dại con con rồi chậm rãi ngồi xuống, nhẹ nhàng vuốt ve lưỡi kiếm.
“Có lẽ, ta đã hiểu sai…”
Khi thanh kiếm thức tỉnh, mọi xiềng xích của thế gian sẽ gãy nát.
“Lời sấm truyền vốn là như thế, nhưng thanh kiếm mà nó nhắc đến có lẽ không phải kiếm thần.” Chàng vuốt ve lồng ngực, thì thầm: “Mà là thanh kiếm ở bên trong này, đúng không?”
Dứt lời, chàng đột nhiên cảm thấy tận sâu bên trong trái tim mình có một ổ khóa vừa vỡ nát, và một cánh cửa vừa mở ra. Chàng nâng đôi bàn tay thô ráp của mình lên cao, nhìn chằm chằm chúng. Kiếm thần chưa từng từ chối chàng, nó chỉ im lặng soi chiếu linh hồn chàng mà thôi. Chàng hiểu, tự do không nằm trên lưỡi kiếm, mà nó thuộc về đôi tay và ý chí của chàng.
Chàng đứng dậy, mỉm cười vươn vai, cảm thấy lòng mình khoáng đạt hơn bao giờ hết. Rồi chàng cúi đầu chào thanh kiếm, mặc áo quần chỉnh tề, sau đó, dọn hết hành lý lên lưng ngựa.
Chàng rời đi trong một buổi bình minh sáng lòa, không mang đi kiếm thần, nhưng nhưng được rừng tặng cho rất nhiều món quý. Bước chân chàng nhẹ như gió, và trong lòng chàng, một luồng sức mạnh mới vừa được sinh ra, tự do, phóng khoáng và rực rỡ như ánh bình minh xuyên qua lá rừng.
Đứng ở bên ngoài cái bát úp khổng lồ, chàng quay đầu ngắm nhìn chốn thiêng lần cuối. Có lẽ trong cuộc đời này, chàng sẽ chẳng còn cơ hội nào quay trở lại đây lần nữa. Xa xa, có con chim đại bàng bay vút lên cao, cất tiếng kêu vang vọng. Chàng ngẩng đầu dõi theo cánh chim thấp thoáng sau những tán lá dày, ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy nó. Rồi chàng khẽ mỉm cười, dắt ngựa đi về hướng Đông, nơi mặt trời mọc.
Trong lòng chàng, có một dân tộc đang chờ ngày vùng lên, và rừng già, tiễn đưa chàng bằng khúc hát ru của riêng nó. Đầy hoang dã, nhưng cũng rất tự do.
________________________________________________________
Truyện ngắn Kiếm Thần được lấy ý tưởng từ hồi ký Tây Nguyên ngày ấy của cố Giáo sư - Bác sĩ Lê Cao Đài, NXB Lao Động, 2004 và Tang thương ngẫu lục, Quyển Hạ, mục II: Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án.
Chú thích:
(1). Theo Giáo sư - Bác sĩ Lê Cao Đài ghi lại trong Tây Nguyên ngày ấy, thứ ấy gọi là nến cà bông, một thứ nhựa được bộ đội nhặt trong rừng rồi bọc bằng lá chuối thành một thỏi dài, dùng đốt thay cho đèn.
(2). Khi công việc đồng áng đã xong, thóc đã đóng kho và thời tiết còn khô, là mùa lữ hành đã đến. Theo Miền đất huyền ảo của Dam Bo, ấy là lúc những người Tây Nguyên kết bạn với nhau, đeo gùi trên lưng, dáo cầm tay và rảo bước trên các con đường mòn. Đồng thời, đối với họ, một tấm chăn được xem là một món quà quý.
(3). Con lửng lợn.
(4). Chất độc này có được nhắc đến trong Miền đất huyền ảo. Đó là nhựa của một cây lớn có vỏ trắng, được người Stiêng tẩm lên các mũi tên.
(5). Tham khảo thêm về truyền thuyết của người Tây Nguyên qua phần Lửa, sắt và người thợ rèn - Miền đất huyền ảo.
(6). Sâm Ngọc Linh.
(7). Cây Mã tiền.
(8). Cây Lân tơ uyn.
(9). Có nghĩa là ôn lại những điều đã cũ để hiểu và nắm bắt những điều mới. Hành động đó có thể giúp người học làm thầy của kẻ khác.
Bình luận
Chưa có bình luận