Chết Giữa Đại Dương


 

 

Truyện ngắn: Chết Giữa Đại Dương

Tác giả: Nhật Huy

​​​​​​​

“Bên bờ biển. Biển xâm nhập vào đất liền, nhấn chìm mọi thứ. Sau đó, người nằm mơ thấy mình ngồi trên một hòn đảo cô độc.”

  • Carl Jung (từ tuyển tập các công trình của C. G. Jung, tập 12)  - 


  1. Lắng nghe.

Tôi đã thấy con mèo ấy ba ngày nay, đúng vào lúc chín giờ tối mỗi ngày. 

Nó xuất hiện ở bậu cửa sổ, nhìn vào trong nhà, kêu meo meo chừng năm phút rồi đi mất. Lông nó đen tuyền, gần như lẫn vào đêm tối, đôi mắt xanh lấp lánh ánh lân tinh. Tôi ngồi trên ghế dựa, nhìn ra cửa sổ hằng đêm. Đến đêm nay - đêm thứ tư - tôi quyết định sẽ hỏi chuyện khi nó đến. Tôi nghĩ mình có thể trò chuyện với nó, bởi trong trăm nhà, nó lại chọn đến nhà tôi. Hơn nữa, ánh mắt nó không giống một con thú vật đần độn. Trong ánh sáng xanh lập lòe, tôi có thể nhìn ra một nỗi niềm kỳ quặc và ấm ức. Nó đến có mục đích, còn tôi thì muốn biết mục đích ấy là gì.

Kéo ghế đến gần cửa sổ hơn, tôi lặng lẽ chờ đợi thời gian tích tắc trôi qua trên quả lắc đồng hồ treo tường. Những tiếng tích tắc gõ đều tạo thành rung động, lan từ tâm điểm ra xa. Nhịp tim tôi gần như đồng bộ với chuỗi sóng âm ấy. Mỗi lần lồng ngực nhấp nhô, tôi có thể thấy từng con sóng vô hình đập vào da mình, đập vào những vật thể cô đơn trong phòng, làm chúng dập dềnh như đang trôi nổi trên mặt nước.

“Lắng nghe. Cảm nhận. Hoà nhịp… Lắng nghe. Cảm nhận. Hoà nhịp…” tôi lẩm bẩm, chậm rãi mài sắc các giác quan. Lời nói của người bạn đồng hành vang vang bên tai, chỉ lối cho hành động và kéo thẳng ý chí của tôi. Tôi không muốn nhắm mắt, tôi muốn thấy từng tích tắc đằng kia được sự tĩnh lặng phóng đại lên nhiều lần. Tôi muốn gặp con mèo đen ấy trong trạng thái hoàn hảo nhất của mình.

Sẽ thật nhục nhã nếu không thể nghe hiểu được nó. Phải không? Tôi gõ lên tay vịn ghế, đồng bộ các rung động nhỏ nhất của không gian với dòng điện chạy qua những mút dây thần kinh trên đầu ngón tay. Tôi gần như biết chính xác thời gian mà không cần quay đầu. Tám giờ, năm mươi chín phút, năm mươi lăm giây.

Năm mươi sáu. Năm mươi bảy. Năm mươi tám. Năm mươi…

“Meo!”

… chín.

“Lắng nghe. Cảm nhận. Hoà nhịp… Lắng nghe…” tôi nhắm mắt, thì thầm, mở mắt. Nó ở đó, đôi mắt xanh vẫn sáng lấp lánh như ba đêm trước. Nhưng lần này tôi có thể thấy những gợn sóng huyền diệu bên trong. Thị lực của tôi được cộng hưởng với ham muốn được biết và hiểu từ ý thức. Con mèo ngồi im trên bậu cửa, nhìn tôi đăm đăm. Mấy cọng ria của nó rung rung, cánh mũi nó hơi ẩm ướt, phập phồng nhẹ nhàng. Lớp lông đen của nó thực ra có lẫn vài sợi trắng. Trông nó không còn trẻ trung, có lẽ cũng đã qua hơn nửa tuổi đời rồi.

“Lắng nghe. Cảm nhận. Hoà nhịp…” tiếng nói của người bạn vang lên thay tôi. Như muốn nhắc cho tôi nhớ rằng anh vẫn ở đây, bên cạnh tôi. Tuy anh không hiện diện dưới hình hài vật lý cụ thể, nhưng ý chí của anh thì không tan biến.

Tôi há miệng. Đợi chờ âm thanh phát ra từ dây thanh quản trong cổ họng cộng hưởng cùng những xung động vi tế dày đặc xung quanh. Qua chừng mười lần tích tắc, tôi có thể nói.

“Xin chào, người bạn lạ mặt.”

Não bộ của tôi phải mất vài nhịp để hiểu được chính lời mình vừa nói. Nhưng đó chỉ là ngập ngừng ở khoảnh khắc đầu tiên. Tôi đã bật thành công một công tắc thấu hiểu thần bí trong mạng lưới phức tạp kết nối vạn vật. Những kiến thức, ngôn ngữ, đặc tính lần lượt chảy vào đầu khi tôi trở thành một điểm trong mạng lưới ấy. Tai tôi có thể nghe được tiếng lách tách vô cùng nhỏ của dòng điện truyền dọc các điểm nối.

“Tôi đã chờ anh… cố tình chờ anh.” Tôi nói. Con mèo, anh bạn, anh ta, nó là giống đực. Nó nghiêng đầu, mắt vẫn dán vào tôi, ánh xanh trong mắt chớp tắt. Đôi tai nó rung rung, tôi biết nó cũng cần làm một việc giống tôi vừa làm. 

Nó cần kết nối với mạng lưới.

Tôi tin nó làm được. Một lòng tin chắc chắn, không có gì có thể lay chuyển được.

“Meo…” nó kêu, không giống tiếng mèo nữa mà nghe y hệt nhân loại cố ý giả tiếng mèo. Đôi răng nanh của nó lấp ló khi cái miệng mở ra rồi đóng lại. Trông nó không có vẻ gì là kinh ngạc, chừng như nó đã thấy trước các sự kiện đang và sắp sửa diễn ra.

“Anh bạn, anh muốn gì?” Tôi hỏi nó. “Anh đã đến đây mấy lần rồi. Anh cần gì ở tôi sao?”

Nó cười. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy nụ cười của một con mèo. Mắt nó nheo lại, khóe miệng nhếch lên, ria hai bên mép hơi cụp xuống.

“Chào!” Nó nói. Âm thanh khàn, hơi trầm, tôi đoán nó đang tuổi trung niên nếu mang dạng người. Và hẳn nó là một con mèo từng trải, một kiểu nhà lữ hành đã đi qua trăm nghìn dặm đường. “Anh cũng không ngu ngốc lắm.”

“Thế à, cảm ơn.” Tôi mỉm cười khi nó chìa một chân trước về phía tôi. Nắm lấy chân nó, tôi lắc nhẹ. Một cái khá to, lông dày, mịn mượt và ấm.

“Ôi, ôi. Chẳng thể chịu nổi cái kiểu cách chào nhau của loài người.” Nó càu nhàu.

“Thế sao? Vậy ta có thể chào nhau theo kiểu của anh, kiểu mèo?” 

Đây hẳn là một con mèo khó tính, tôi nghĩ thế. À mà hình như con mèo nào cũng có cái tính cách này mới phải. Cáu kỉnh, hay càm ràm, và luôn khó chịu với tất cả mọi sự vật sự việc chung quanh.

Nó vừa bĩu môi. Một con mèo bình thường có thể bĩu môi không? Tôi không rõ lắm. Nhưng ở đây, lúc này, thì nó có thể làm mọi biểu cảm mà một con người khoẻ mạnh bình thường có thể làm.

“Không, anh không muốn ngửi đít tôi đâu. Tôi cũng không muốn để một loài khác biệt ngửi đít mình và ngược lại.” Giọng nó có vẻ châm biếm.

Ừm, nó nói đúng. Tôi cũng chưa từng nghĩ đến việc bản thân mình sẽ làm hành động đó, chưa lần nào trong đời.

“Thế được rồi.” Tôi nói với nó. “Anh nói đi, mục đích của anh khi đến tìm tôi mỗi đêm?”

Nó đưa tay vuốt mấy cọng ria. Vẻ mặt có nét tư lự. 

“Tôi đi qua con phố này nhiều lần rồi. Và luôn thấy anh ngồi ở đây. Rồi đột nhiên, tôi cho rằng anh sẽ hiểu được tôi.” Nó lẩm bẩm.

“Quanh đây không ai như tôi à?” 

“Ừ, có mỗi anh. Mấy tên con người kia quá bận rộn. Chúng không muốn bỏ vài phút quý giá trong đời chúng để nhìn trời ngó đất như anh. Thay vào đó, chúng thích nhìn vào mấy cái màn hình to nhỏ khác nhau, hàng giờ liền. Hoặc đi lang thang quanh mấy cái biển hiệu chói mắt in mấy ký tự ngoằn ngoèo mà tôi đọc không hiểu.”

Tôi bật cười khi nghe ra thái độ châm biếm của nó. 

“Mắt tôi không thích những thứ đó.” Tôi nói. “Còn chân tôi đây, anh thấy đấy, không tiện di chuyển.”

“Thế à?” Nó chồm người, thò đầu vào cửa sổ, ngó xuống nhìn chân tôi. “Trông tệ nhỉ, bị gì thế?”

“Ngã xe, lắp hai thanh kim loại, may ba mươi chín mũi.”

Nó nhăn mặt, rụt cổ lại.

“Ừ, ừ…” nó rừ rừ trong cổ họng. “Tệ thật, đáng ra anh nên dùng thứ tự nhiên đã trao cho anh, anh không nên lái cái… à… anh vừa nói cái gì ấy nhỉ?”

“Xe. Xe máy?”

“Đúng, đúng là nó.” Nó gật gù. “Anh có chân, sao không dùng nó để đi? Sao lại phải phụ thuộc vào đống sắt kia?”

Cũng có lý nhỉ. Con mèo này, tính cách của nó cũng không lầm lì như vẻ ngoài. Trái lại, nó khá dông dài.

“Đi một đoạn ngắn thì ổn. Đi xa cần tốc độ nhanh hơn, đúng chưa? Hơn nữa, không đi xe thì sẽ mệt lắm.” 

Nó trầm ngâm, dường như đang ngẫm nghĩ phân tích mức độ hợp lý trong lời nói của tôi. Qua chừng hai phút nó nói.

“Chẳng hiểu. Mà cũng không có nhu cầu hiểu. Chúng tôi vẫn đi bằng chân mình từ khi sinh ra đến lúc chết đi, và chẳng có ai phải gắn sắt vào chân như anh. Có vẻ lợi ích luôn đi kèm với rủi ro.”

“Ờ. Chính thế.” 

Tôi thích nó. Con mèo này rất thú vị.

“Thế quay lại câu hỏi đầu tiên được chứ? Anh tìm tôi làm gì?”

“À…” nó gãi tai bằng chân sau, hai mắt nhắm nghiền. “Chờ chút, chờ chút!”

Gãi tai chừng nửa phút, nó lắc đầu thật mạnh.

“Mắc dịch!” Nó mở mắt, bắt đầu liếm chân trước rồi đưa lên vuốt dọc từ tai xuống mặt. “Mấy cái hạt cây còn mắc trong tai tôi. Đáng ra tôi không nên chui qua cái bụi rậm ấy. Ngứa gần chết!”

Tên này… trông cũng dễ thương. Tôi bật cười. Dường như bất cứ con mèo nào cũng có thể thu hút loài người bằng mấy hành động thường ngày của chúng. Nhưng may là họ không thể nghe hiểu tiếng nói của bọn mèo, chúng càm ràm như ông chú hay bà cô khó tính.

Nó giải quyết cơn ngứa ngáy chừng hai phút, đến khi lớp lông trên mặt trở nên bóng mượt mới dừng lại.

“Rồi…” nó thở ra một hơi, giọng có vẻ thoải mái. “Nói đến đâu rồi ấy nhỉ. Anh thông cảm… mỗi lần lắc đầu là tôi lại làm văng mất mấy mảnh ký ức ấy mà.”

Cái này… nó đang nói đùa đúng không? Tôi có nên cười không nhỉ? Hẳn là nên, nó đang ngó tôi đăm đăm như một nghệ sĩ hài độc thoại nhìn khán giả sau khi thả miếng.

“Thôi dẹp đi! Anh cười trông gớm chết!” Nó bực dọc gạt đi nụ cười giả tạo của tôi. “Giờ tôi nói đây, tôi cần anh giúp tôi một việc. Việc riêng của tôi. Đổi lại, tôi cũng sẽ giúp anh.”

“Tôi có gì mà cần anh giúp?” Tôi hỏi lại.

Nó im lặng, nhìn tôi thật lâu. Đôi mắt xanh lại sáng lên như hai đốm lửa nhảy múa. Tôi chợt thấy hồi hộp, lông tay bị tĩnh điện vô hình hút lên dựng đứng. Không gian xung quanh xao động, có một làn sóng vừa quét ngang.

“Anh cần được giúp. Tin tôi đi. Giờ anh không biết, nhưng rồi anh sẽ biết. Đến lúc đó anh sẽ thấy đây là một cuộc trao đổi công bằng.”

Tôi không nói gì. Nhưng có thể cảm nhận được sự thành thực trong lời nó nói. Không, không hẳn là tôi cảm nhận được. Người bạn kia đang thì thầm như thế thì đúng hơn.

Bạn à. “Lắng nghe…” Bạn nói gì? “Cảm nhận…” Tôi có thực sự đang tỉnh táo không hả bạn? “Hoà nhịp…” Có, đúng là có, ít ra là tôi tự thấy mình tỉnh táo. Đúng không? Việc ngồi đây, nói chuyện với một con mèo… rất… rất bình thường mà, đúng không?

Tôi cần sự giúp đỡ của nó, để làm gì thì tạm thời tôi không biết. Nhưng tôi tin bạn tôi. Anh ta là một người bạn tốt bụng và trung thực. 

“Tôi giúp gì được cho anh?” Tôi hỏi con mèo.

Trong khoảnh khắc, nó để lộ ra sự ranh mãnh xen lẫn hồi hộp trong ánh mắt và gương mặt đầy lông. Nhưng biểu cảm hỗn hợp kỳ quái ấy chỉ xuất hiện trong một cái chớp mắt, hệt như ánh chớp hư ảo loé lên trên nền trời đen kịt đằng sau. Tôi cảm thấy hơi mờ mịt, không biết mình có vừa gặp phải ảo giác quang học hay không.

“Tôi cần anh đi cùng tôi. Giải cứu một người… à… một con mèo… là bạn tôi.” Giọng nó hơi lắp bắp.

“Bạn anh?” Tôi lặp lại, nhìn rõ được sự bồn chồn trong thái độ của nó. “Ở đâu? Mà khoan… chân tôi không ổn, không thể đi nhanh được, phải chống nạng.”

“Đừng… đừng lo cái đó!” Nó thẳng lưng, quay đầu, chỉ ra bên ngoài. “Không phải chỉ có tôi và anh. Tôi có cách để anh đi lại bình thường trong vài tiếng. Tôi… à… chúng tôi cần một sinh vật có dạng người để có thể đi vào chỗ đó.”

“Cách gì?” Tôi không thể chồm ra cửa sổ để xem nó đang chỉ cái gì, nhưng có thể nghe được tiếng lách cách, lách cách. Là tiếng va chạm của gỗ hay sắt gì đó.

Ngay sau đó, hàng loạt bóng đen hiện ra trên bậu cửa sổ. Tôi giật mình.

“Đây là…” tôi chớp mắt, cố trông rõ đám đông vừa xuất hiện một cách hết sức đột ngột. “Chuột… gỗ?”

Một bầy chuột đi bằng hai chân, cơ thể ghép từ những mảnh gỗ. Cổ chúng đeo dây như tù nhân, đầu dây bên kia nằm trong miệng một… con mèo tam thể mập ú.

Con mèo tam thể nhìn tôi, thái độ hết sức khinh khỉnh. Rồi nó quay sang con mèo đen, kêu meo meo liên hồi. Cái tên mới đến này hình như không thích tôi, nó từ chối nói ngôn ngữ chung của “mạng lưới”.

Hai con mèo cãi nhau. Chúng meo meo, rừ rừ, khè khè. Sau chừng năm phút mới có vẻ hoà hoãn một chút. Con mèo tam thể kêu lên hai tiếng, bỏ lại đám chuột gỗ rồi nhảy xuống, biến mất tích. Con mèo đen nhìn theo bạn mình, thở dài, trông hơi chán nản buồn bã. Lúc lâu sau mới quay sang tôi, nói:

“Việc giao tiếp với loài người là cấm kỵ. Chúng tôi không thích để cho các anh hiểu được mình.” Giọng nó ỉu xìu. “Nhưng tôi hết cách rồi, nếu không hành động nhanh thì không có cách nào cứu được nạn… à… cô ấy.”

“Thế à?” Tôi đã đoán được lờ mờ. Cái tên đen này chắc hẳn là đang yêu. Nó muốn nhờ tôi đi đến đâu đó để cứu người (hay đúng hơn là mèo) nó yêu. “Mấy con này làm gì?” Tôi chỉ vào đám chuột gỗ.

“Chúng à?” Nó nhìn qua, rồi giơ chân lên, thò một cái móng ra gõ lên đầu con chuột gần nhất. Âm thanh lách cách lại vang lên, con chuột vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ, giống một bộ xếp hình lego. “Đây là khoa học mèo.” Giọng nó trở nên hào hứng, có thêm vẻ khoa trương. “Tôi hướng dẫn anh, lắp ráp chúng lại, đeo lên lưng. Nó sẽ giúp anh đi lại dễ dàng trong bốn tiếng.”

“Thật ư?” Tôi kinh ngạc. Ý nó là giống loài bốn chân đã nghiên cứu ra một kỹ thuật siêu việt dành cho người đang bị chấn thương không thể di chuyển bình thường được. Chúng… có thực là mèo không nhỉ?

Nó gật gù, hết sức đắc thắng. Nhưng ngay lập tức nghiêm giọng.

“Nhưng cũng có tác dụng phụ. Tôi không muốn lừa dối anh. Tôi là một quý ông ngay thẳng. Tôi không khoe khoang nhé, là tôi đang nói sự thật thôi.”

Ừm… làm gì có thứ thần kỳ như vậy được. Phải có tác dụng phụ, tôi nhìn nó, chờ đợi nó nói tiếp.

“Ráp lên người xong, anh phải uống viên thuốc này.” Chẳng biết từ đâu, nó móc ra một viên con nhộng hai màu xanh trắng. “Uống xong, sau bốn tiếng anh sẽ phải nằm liệt giường hai tuần. Anh có đồng ý không? Khoan, trước khi quyết định thì tôi nói anh hay. Việc giúp đỡ anh cũng đem lại cho tôi rắc rối lớn tương tự. Tôi không chiếm phần hơn trong giao dịch này, rất công bằng.”

“Nhưng tôi còn chẳng biết mình gặp vấn đề gì lớn đến mức đó.” Tôi nhìn nó, ngập ngừng. Tuy hiện giờ tôi chỉ có thể loanh quanh trong nhà, nhưng nằm liệt giường thì tệ hơn thế nhiều lắm. Hơn nữa, viên thuốc kia trông có vẻ khá đáng ngờ.

Con mèo trầm ngâm. Đôi mắt nó lim dim. Nó đang ngẫm nghĩ, tôi biết thế.

“Tôi không thể nói rõ. Nhưng…” nó nhìn tôi, và lần nữa, âm thanh của người bạn kia lại vang lên trong óc tôi. “Ừ, anh nghe chưa? Tôi có thể đưa anh đến gặp lại bạn mình.” Giọng nó lẫn với tiếng thì thầm.

Thế à? Quả một đề nghị hấp dẫn, đúng không bạn tôi? Anh đang ở đâu rồi? Anh đang muốn nói gì với tôi? Được… được rồi… tôi sẽ nghe lời anh.

Giơ tay về phía nó, tôi nói:

“Thế thì rất vui được hợp tác.”

Nó cười, đặt viên thuốc vào tay tôi.

“Cảm ơn anh. Tôi cũng rất vui.”

Rồi, theo hướng dẫn của con mèo. Tôi lắp ráp đống linh kiện rã ra từ đám chuột gỗ thành một cái đai lưng. Đeo lên, uống thuốc, chỉ sau chừng hai phút thì tôi đã có thể điều khiển cái chân đầy vết khâu vá của mình, thoải mái như thường. Quá sức thần kỳ!

“Đi thôi!” Tôi đứng lên. “À mà đi đâu nhỉ?”

Con mèo nhún chân, nhảy lên vai tôi. Nó khá nặng, mềm và ấm.

“Đến bảo tàng động vật thành phố đi!” Nó reo lên, chỉ tay về một phía. “Nhanh lên, có hội của tôi đợi ở đó rồi!”

  1. Cảm nhận.

Tôi và con mèo đen ra khỏi nhà vào lúc gần mười một giờ. Đi bộ lại sau một thời gian khá dài lại không khó khăn mỏi mệt như tôi tưởng. Một người một mèo lướt dọc các con phố lấp loáng ánh đèn. Không có ai chú ý đến chúng tôi, tất cả đều có mối bận tâm riêng. Họ hoặc nắm tay nhau, cười đùa ôm ấp; hoặc bước đi xiêu vẹo vì chất cồn chảy trong máu; hoặc tụm năm tụm ba trước một hàng ăn đêm, cụng ly và la hét. Trông họ có vẻ thoải mái, nhưng trong sự thoải mái lại phảng phất nhiều nỗi niềm u uất và mỏi mệt. Họ đứng, đi, ngồi, có vài kẻ nằm dài ra đất. Gương mặt họ khác nhau, nhưng những cái bóng dưới đất lại giống y hệt, đen như nhau và chồng chéo lên nhau. Tạo thành một bức tranh hỗn loạn chỉ có hai màu đen và xám.

Đi xuyên qua bầy người, xuyên qua bức tranh vô thực, tôi thấy lạc lõng hết sức. Âm thanh xôn xao của phố xá đục dần, những câu và chữ lẫn vào nhau, sôi trào, nghe như tiếng nước ùng ục. Tôi có cảm giác mình biến thành một nét bút vô tình, một sự sai sót, hay một con thuyền độc mộc trôi trên đại dương; không thể chạm, thấy hay hiểu được thế giới mờ đục dưới vùng nước sâu. Bàn chân tôi đạp trên mặt gạch lát vỉa hè, không phát ra bất kỳ tiếng động nào. Đầu óc tôi chao đảo, vừa lo lắng lại vừa buồn bực.

May mà tôi có bạn đồng hành: con mèo đen. Nó không nói gì nhưng lại phát ra tiếng rừ rừ nhè nhẹ bên tai tôi. Tôi thích âm thanh này. Nó xoa dịu sự bất an khi tôi “tái hòa nhập” với thế giới; nó giống như một sợi dây mảnh nhưng dẻo dai, giữ cho tôi không bị trôi đi quá nhanh, trôi đi quá xa đến một miền biển mênh mông vô định.

Trôi mãi, trôi mãi, đến khi thấy một ngôi nhà lớn sơn màu trắng kem, lối trang trí bên ngoài hết sức cổ điển. Dọc mấy bậc thang lát đá có đặt nhiều tượng động vật. Trên cánh cửa màu trắng cùng tông màu tường có gắn một hàng chữ nổi xanh lá đậm: Bảo tàng động thực vật thành phố.

Thì ra là còn có “thực vật” trong tên. Thế mà con mèo đen lại bỏ qua phần đó. Đúng nhỉ, nó đâu có biết đọc chữ.

“Đến rồi. Đi vòng qua ngã ba trước mặt, vào cửa sau ấy.” Nó lên tiếng, tôi làm theo. Đi dọc con hẻm dài chừng trăm mét, rẽ phải lần nữa, tôi đã nhận ra ngay điểm cần đến. Dưới cánh cửa gỗ màu đỏ đã có bốn năm con mèo nằm đợi sẵn trên bậc thềm. Thấy chúng tôi đến, bọn nó đứng dậy, kêu meo meo ra vẻ sung sướng.

Người bạn đồng hành lông đen của tôi nhảy xuống, nhập hội với đồng đội. Chúng bắt đầu ngửi đít nhau. Tôi chẳng thể hiểu làm thế để làm gì. Có gì thơm đâu mà ngửi nhỉ. Sau một hồi “đối thoại”, nó quay lại với tôi.

“Giờ là lúc tôi cần anh giúp.” Nó nói. “Buổi tối, chỗ này có một tên bảo vệ. Hắn… à không… chúng không đủ thông minh. Chúng không cho con vật nào vào hay ra, nhưng là con người thì được. Anh chỉ cần nói lúc sáng mình có đến đây và đã bỏ quên gì đó, giờ anh mới nhớ ra nên quay lại lấy.”

“Chúng? Ý anh là sao?” Tôi hỏi nó.

Con mèo lắc đầu, trông hết sức bất đắc dĩ.

“Anh cứ vào thì biết. Giờ anh gõ cửa đi, gõ ba cái. Chúng tôi đi ngay sau lưng anh, trốn trong cái bóng hình người của anh. Mấy thằng ngu kia hẳn là không nhận ra.”

Mù mờ, tôi làm theo. Bước đến gõ cửa, tôi nghe có tiếng bước chân vang lên. Rồi âm thanh lách cách của ổ khoá, sau đó là tiếng ken két của cánh cửa.

Bên trong đúng là có người.

Hay là… không hẳn… không phải?

Là khỉ… ba con khỉ? Chúng xếp chồng lên nhau, con trên đạp lên vai con dưới. Con dưới cùng bịt miệng. Con ở giữa bịt tai. Con trên cùng bịt mắt. Cả ba mặc quần áo chỉnh tề, là đồng phục bảo vệ màu xanh.

Ba con khỉ “ba không” ư? Tại sao chúng nó lại ở đây? Tôi biết chúng, tôi từng đọc về chúng. Ba con khỉ đại diện cho sự khôn ngoan: không nói điều không cần nói, không nghe thứ không cần nghe, và không thấy cảnh không cần thấy.

Vậy mà con mèo đen lại bảo chúng là “mấy thằng ngu” sao?

Thấy tôi chần chừ, con mèo lên tiếng. Nó ở ngay sau lưng tôi.

“Đi đi, nói đi! Đừng lo, chúng là hàng nhái. Chúng bắt chước lại tượng ba con khỉ thôi. Bọn này chỉ biết kêu khẹc khẹc và gãi chim thôi. Chúng ngu lắm!”

“Tôi… ờ… xin chào…” tôi ngập ngừng. Con khỉ dưới cùng - con Không Nói - nhìn tôi, đôi mắt nó đen, không phản chiếu chút ánh sáng nào. Nó dùng bàn tay còn lại của mình vỗ chân con khỉ ở giữa. Con Không Nghe giật mình, kêu khẹc khẹc ra ý dò hỏi. Con Không Thấy ở trên cùng lắc đầu liên tục, có vẻ hết sức bồn chồn. “Tôi để quên đồ, cần vào trong lấy. Các bạn… có thể cho tôi vào không?” Tôi nói theo hướng dẫn của con mèo. 

Không Thấy không lắc đầu nữa, nó hướng tai về phía tôi, rồi đập vào trán con Không Nghe bên dưới. Bất giác, tôi thấy tội cho con khỉ nằm giữa. Hai tay nó bịt chặt tai, không thể chống lại các tác động từ hai con còn lại.

“Khẹc, khẹc!” Nó kêu. Tôi chẳng hiểu nó nói gì. Và tại sao nó lại phải đóng vai người phát ngôn cho cả ba? Trong khi Không Thấy vẫn có thể nói? Thực là quái đản.

“Nó hỏi anh để quên đồ gì, ở đâu?” Con mèo thì thầm đằng sau tôi. “Nói với nó là ở khu các loài họ mèo. Để quên cái gì thì anh tự bịa ra đi!”

Nghe theo, tôi bảo rằng mình quên ví tiền. Không Thấy lại gõ đầu Không Nghe, con khỉ ở giữa tỏ vẻ hết sức cam chịu. Con Không Nói dưới cùng vẫn nhìn tôi chằm chằm. Giữa ba đứa bọn chúng có một mối liên kết, nhưng hình như hết sức lỏng lẻo. Tự nhiên tôi có một suy nghĩ nhảm nhí: bên ngoài nhìn chúng thì thấy là ba, nhưng rất có thể bên trong chỉ là một. Chúng là ba tính cách trong cùng một “người” chăng? Nhưng khỉ thì có phải là người đâu nhỉ. Cùng lắm thì có thể chúng có cùng tổ tiên với tôi thôi. Thuyết tiến hoá nói như thế.

Ba con khỉ “ba không”, nhưng trái ngược với biểu tượng của sự thông thái, bọn chúng ngốc nghếch. Chúng đại diện cho mặt đối lập hoàn toàn: nhìn thấy nhưng không thể nói và không muốn nghe; nói được nhưng không thể nghe và không muốn thấy; và nghe được nhưng không thể thấy không muốn nói. 

Bọn chúng, trông hệt những kẻ ấu trĩ, ngu dốt và tự đại. Chúng nghe một đằng, thấy một nẻo và luôn tự ép mình phải nói những thứ chính mình còn không hiểu rõ. Giống lắm, rất giống! Thế mà chúng lại đảm đương nhiệm vụ canh gác và bảo vệ, mỉa mai làm sao!

Đợi chúng “thảo luận” với nhau xong - tôi cũng không chắc là chúng hiểu được hết suy nghĩ của nhau - thì tôi và bầy mèo được dắt vào bên trong bảo tàng. Không khí bên trong hơi lạnh và khô. Đi từ cửa sau vào thì sẽ gặp khu Thực Vật trước. Mô hình những cái cây giả xen lẫn với cây thật nằm dọc hai bên hành lang rộng chừng năm mét. Có những loài cây lạ lùng, nở ra những bông hoa lạ lùng đặt trong hộp kính. Trên trần cao, cách chừng hai mét sẽ có một bóng đèn nhỏ, toả ra ánh sáng vàng nhạt dịu mắt. Trên những hộp trưng bày cũng có đèn rọi. Lướt mắt qua những cái tên khoa học dài dằng dặc, tôi có cảm giác như mình vừa đặt chân vào quá khứ hàng triệu năm trước, nơi có những loài thực vật to lớn và rực rỡ đến mức không tưởng. Tôi chưa từng vào bảo tàng này, có lẽ vì thế nên tôi thấy rất hứng thú dù chỉ thấy được mô hình thu nhỏ của chúng. Một chút căng thẳng trong đầu tôi chìm xuống. Mũi tôi ngửi được mùi hương của cây cỏ và đất đai, dù chẳng rõ rằng có mùi đó ở đây thật không. 

Đây là phản xạ từ bản năng, thứ được khắc sâu vào gen qua trăm nghìn năm tiến hoá, tôi nghĩ thế. Con người cũng là một loài động vật, như trăm nghìn loài khác, cũng được tự nhiên thai nghén, sinh ra và nuôi lớn. Tất nhiên chúng ta sẽ thấy thoải mái thư thái khi được quay về “nhà”, sau những năm tháng lưu lạc giữa thành phố sắt thép chật hẹp, chất đầy khói bụi và tiếng ồn đinh tai nhức óc.

Nhưng… ừ… luôn luôn có “nhưng”. Như một đồng xu trong không gian ba chiều, luôn có hai mặt. Hình như càng phát triển chúng ta lại càng có xu hướng rời xa khỏi gốc rễ, xem thường nó, dẫm đạp nó, biến nó thành một thứ xấu xí và bẩn thỉu.

Tôi chẳng phải là một nhà hoạt động vì môi trường. Tôi chưa từng nghĩ đến ngày mai, trăm năm, nghìn năm nữa thì thế giới này sẽ ra sao, điều ấy quá xa vời. Nhưng ngay lúc này, khi bước qua những lát cắt thời gian được dựng lên bằng hàng loạt mô hình nhân tạo, tôi lại thấy mình có tội. Ai cũng có tội, cứ là người là có tội. Có người mang tội trực tiếp, có người thì gián tiếp. Tội lỗi chất chồng, đến một lúc nào đó sẽ đủ lớn để làm cái cây cuối cùng trên mặt đất này héo rũ và tuyệt chủng. Thế hệ tiếp theo chỉ có thể nhìn vào đống mô hình mà tưởng tượng về một thời kỳ xanh mát đã chìm rất sâu vào trong quá khứ.

Buồn quá! Tôi muốn khóc. Và tôi cũng giận nữa. Giận chính tôi, giận cả loài người.

Ba con khỉ đi thẳng, bỏ qua các ngã rẽ vào những nơi trưng bày riêng của khu Thực Vật. Mang theo tâm trạng ủ dột, tôi bước theo chúng vào khu Động Vật. Trong suốt đoạn đường, chúng không ngừng kêu khẹt khẹt. Và, con mèo đen nói đúng, tôi thấy Không Nói và Không Thấy gãi soàn soạt. Chúng còn gãi hộ cho cả Không Nghe. Hành động thiểu năng của bọn khỉ làm tôi buồn cười, cũng có tác dụng an ủi nỗi buồn kỳ lạ vừa dâng lên trong lồng ngực.

Đi qua những bộ xương khủng long, rồi qua những loài vật đã tuyệt chủng, đến những con thú trông có vẻ quen mắt. Tôi nhìn chúng, chúng nhìn lại tôi, đôi mắt đính đá phản chiếu ánh sáng. Tưởng như vẫn còn vài mảnh linh hồn vất vưởng đọng lại nơi đó. Tôi rùng mình, tự dưng thấy lạnh sống lưng. Bọn thú này có gì đó kỳ quái lắm. Chúng, dường như chúng đang tồn tại ở giữa hai trạng thái chết và sống. Chúng đứng im, nhưng tôi cứ có cảm giác chỉ cần mình chớp mắt, chúng sẽ nhảy bổ đến cắn xé mình.

Nhìn chúng… có vẻ giận dữ. Mồ hôi tươm ra trên trán và lưng tôi. Phải lắm, nếu là tôi, nếu tôi bị giết, lột da, nhồi bông làm tượng trưng bày cho người đến ngắm thì tôi cũng giận dữ y như vậy. Hẳn là tôi cũng muốn lao đến cắn cho đám người lảng vảng xung quanh vài miếng thật đau!

“Khẹt khẹt!” Con khỉ Không Nghe kêu lớn làm tôi giật bắn. Nó đã dừng lại ở trước khu Họ Mèo. Có một con hổ nhồi bông thật lớn đứng đó, đằng sau tấm kính, giữa mấy thân cây giả.

“Nó hỏi là anh để quên ví ở chỗ con vật nào. Trả lời là Mèo nhà đi!” Giọng nói thì thầm vang lên đằng sau tôi, con mèo đen có vẻ căng thẳng.

Sau khi nghe câu trả lời, ba con khỉ dẫn tôi vào lối rẽ, đi sâu vào khu Họ Mèo. Tôi thấy sư tử, báo hoa mai, báo đốm, báo đen; rồi đến đám thú nhỏ hơn: linh miêu, mèo gấm, mèo rừng, ti tỉ loài mèo trông hao hao nhau. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết được rằng số lượng nhân khẩu trong họ nhà mèo rất lớn. Đi chừng hai mươi mét, gần đến cuối hành lang tôi mới thấy tấm bảng nhỏ ghi hai chữ “Mèo nhà”. Trong cái hộp kính, có chừng hơn chục con mèo nhồi bông khác nhau, lông xám, trắng, đen, cam, vằn, dài ngắn đủ cả. Có luôn giống không lông, nhìn trụi lủi.

“Khẹt!” Ba con khỉ dừng lại, Không Nói nhìn tôi. Đôi mắt đen của nó không hiện rõ bất kỳ biểu cảm nào. Không Nghe bắt đầu kêu liên tục. Không Thấy thì đưa đầu qua lại như cái ăng ten cố dò tín hiệu âm thanh.

Đến đây rồi làm gì nữa?

Tôi quay đầu nhìn bầy mèo trong lồng kính, “người bạn” của con mèo đen hẳn là một trong số chúng. Nhưng tại sao nó lại muốn “cứu” một con vật đã chết? Bên trong bọn chúng có còn gì đâu, xương cốt nội tạng đã bị moi sạch, dùng bông xốp để thay thế hết rồi.

Trừ phi… có sai sót gì đó?

Một thứ gì đó, thứ có vẻ khác biệt nhất với khung cảnh xung quanh? Tập trung nhìn vào bầy mèo nhồi bông. Tôi cố sức mở to mắt. “Phải tìm ra nó!” Ai đó thì thầm như thế vào tai tôi.

Thời gian, tôi có thể cảm nhận được từng tích tắc phát ra từ một cái đồng hồ vô hình. Ban đầu nhỏ, rồi lớn dần, rồi thành một chuỗi âm lặp đi lặp lại.

“Có gì đó? Có gì đó? Có gì đó?” 

Tóc gáy tôi dựng đứng, khung cảnh trước mắt rung lắc dữ dội. Không gian bốn phương tám hướng xung quanh kêu răng rắc, móp méo như bị bàn tay vô hình khổng lồ tóm lấy rồi siết mạnh. Mặt đất nứt ra, ba con khỉ ngã dúi dụi, nhưng lạ thay chúng vẫn dính vào nhau.

“Lắng nghe! Lắng nghe! Lắng nghe!” Tiếng nói quen thuộc lại vang lên. Tôi gồng người, dùng hết sức giữ thăng bằng, đầu óc mụ mị. Những chuỗi âm gấp rút nhưng rời rạc hiện ra, trôi trong không gian rồi truyền vào não tôi. Nghe như có nhiều người đang đối thoại với nhau ở chiều không gian khác, và cuộc đối thoại ấy vô tình lọt vào vết nứt thời không, chảy đến nơi tôi.

Ban đầu, không thể hiểu được những lời đó, chúng trầm thấp và đục ngầu. Chỉ có ba câu quen thuộc kia vang lên liên hồi, thành bọt nước nổi lên mặt rồi nổ lốp bốp từng đợt.

“Lắng nghe! Lắng nghe! Lắng nghe…”

“Cảm nhận! Cảm nhận…

“Hòa nhịp…”

Đầu óc tôi quay cuồng khi cố điều chỉnh tâm trí đồng bộ với trường âm thanh lục bục như nước sôi kia.


  1. Hòa nhịp.

Hít vào… thở ra…

Hít vào… thở ra…

“Hít vào… thở ra… Hòa nhịp. Hòa nhịp!” 

Cuối cùng tôi cũng “kết nối” được với chiều không gian kia.

“Tình trạng anh ta… không… không ổn định lắm!”

“Nhịp tim! Nhịp tim tăng cao quá! Anh ta đang kháng cự!”

“Đến giới hạn rồi, không đi xa hơn được nữa.”

“Không! Cố lên. Thêm thuốc! Thêm thuốc!”

“Lắng nghe! Bạn tôi! Lắng nghe tôi. Bạn có nghe tôi không?”

Bạn đấy ư? Bạn tôi. Gáy tôi đau nhức như có ai vừa đâm cây kim nhọn vào. Mũi tôi ướt nước, tôi cố đưa tay lên quệt mũi. Tầm nhìn trở nên chập choạng, không gian dường như đang nứt ra từng mảnh. Tôi thấy thật nhiều bóng chồng. Trong những cái bóng ấy, có hình ảnh đôi tay đẫm máu. 

Tay của ai? Của tôi ư? Máu của ai? Phải của tôi không? 

Mà “tôi” là ai ấy nhỉ? Tôi không nhớ tên mình, không nhớ mình là ai, không có chút xíu ký ức nào khác ngoài ba ngày gần đây. 

Có một con mèo đen, tôi đã thấy nó ba ngày nay. 

Nó đến tìm tôi, chúng tôi trao đổi, tôi đồng ý giúp nó.

Tôi đến đây. Và tôi thấy rồi. Cuối cùng, tôi đã thấy “thứ khác biệt”.

Một con mèo trắng, lông dài, giống cái. Nó nằm trong góc khuất phía đằng sau tủ trưng bày. Trông kìa, nó còn sống! À không… nó đang hấp hối thì đúng hơn. Bên sườn nó có một con dao cắm ngập vào. Là ai? Là ai đã đâm nó? Máu nó tuôn ra, ướt đẫm hết tay kẻ ác độc kia.

Tay ư? Khoan… khoan đã nào!

Tôi giơ tay mình lên trước mặt, nhìn. Có rồi lại không, đỏ rồi lại xám, lạnh rồi lại nóng. Thực tại bị bóp méo trong tiếng la hét kêu gào ỏm tỏi, nổi trên nền âm thanh còi báo động reo ầm ĩ.

Tôi cố sức quay đầu, nhìn về phía ba con khỉ, chúng cũng nhuộm đầy máu. Đôi mắt của Không Nói trợn trừng, đen thui vô hồn. Cái lưỡi của Không Nghe thè ra, xám xịt. Cái đầu của Không Thấy nứt toác, thấy cả não trắng như đậu hũ nát bên trong. Bên cạnh chúng có một cây rìu dài, loại rìu cứu hoả chuyên dùng để phá cửa. Chúng chết rồi. Nhưng từ khi nào? Ai đã giết chúng chứ? 

Hai vùng không gian tiếp cận rồi va chạm với nhau. Các bóng chồng lại hiện lên, chớp rồi tắt, như có ai đang đùa giỡn với bóng đèn hiện thực, còn tôi thì lại không chắc cái gì mới là “hiện thực”.

Ba con khỉ bị đập vỡ đầu, hay là một gã trung niên mặc áo bảo vệ đang nằm trong vũng máu, hộp sọ chỉ còn một nửa?

Con mèo trắng bị đâm, hay là cô gái mặc váy dài màu trắng đang hấp hối với đôi mắt bàng hoàng đẫm lệ?

Dưới đống hình ảnh sáng tối, đầu tôi đau nhức, chân cũng thế. Không phải con mèo đen đã nói rằng thứ “công nghệ” này có thể giúp tôi đi lại trong bốn tiếng sao? Chẳng lẽ đã hết giờ rồi ư?

Tôi ngồi bệt xuống, dựa lưng vào tủ kính. Nhắm mắt, cố gắng Hòa Nhịp. Hít rồi thở, lặp đi lặp lại. Chừng vài giây (hoặc vài phút, tôi không rõ lắm) âm thanh ồn ào đột ngột biến mất, để lại trong tai tôi một tràng tiếng u u không thực. Tôi mở mắt, không gian xung quanh đã trở lại bình thường. Tôi thấy con mèo trắng nằm trong tủ đối diện. Hình như nó chết rồi, không thấy bụng nó phập phồng nữa. Máu đỏ chảy ra thành vũng, nhuộm đẫm bộ lông trắng của nó.

Trông… cũng đẹp…

Một nét đẹp hoang dại, tàn ác và gây hứng thú tột cùng. 

Cảm giác này là gì ấy nhỉ? Mà thôi, không cần để tâm tới nó.

Tôi… tôi mệt quá, có lẽ tôi cần nhắm mắt một lúc nữa. Tim đập nhanh quá, tôi có thể nghe tiếng nó dộng bình bình vào lồng ngực mình. Phải tìm cách để giữ cho nó ổn định. Cố lên! Cố lên nào!

“Lắng nghe. Cảm nhận. Hoà nhịp...” Tôi lẩm bẩm.

  1. Đại dương

Nhắm mắt, hít thở, mở mắt. Tôi đang làm gì ở đây thế nhỉ?

Đồng hồ điểm mười hai giờ, tôi đang ngồi trên ghế dựa, trong phòng của mình. Ngồi đối diện tôi, trên một cái ghế khác, qua một cái bàn thấp là một người đàn ông gầy gò, mặc vest đen.

“Chào bạn!” 

Tôi có biết anh ta không nhỉ. Giọng anh ta có vẻ quen lắm. Tôi đã nghe nhiều lần rồi. Cứ lặp đi lặp lại sáu chữ kia.

“Anh là… bạn tôi?” Tôi ngập ngừng hỏi.

“Đúng rồi. Tôi đến gặp bạn như đã hứa đây.” Anh ta cười. Nụ cười chẳng chút tươi vui.

Trông anh ta cũng quen lắm. Nhất là cái điệu bộ trên gương mặt, cái nụ cười thảm não kia, tôi đã thấy nhiều lần rồi thì phải.

“Còn con mèo, nó đâu?” Tôi hỏi, cố gom góp đám ký ức vỡ vụn còn sót lại trong não.

Người đàn ông thở dài, nhìn tôi. Chợt tôi thấy lạnh sống lưng, trong một tích tắc, đôi mắt anh ta sáng lên. Màu xanh như lân tinh.

Chẳng lẽ…

“Anh… anh chính là nó?” Tôi ngạc nhiên vì nhận ra mình đang bình tĩnh vô cùng, và tôi vừa ghép nối các dữ liệu rời rạc lại với nhau bằng tốc độ cùng chuỗi logic không tưởng.

Giống như… giống như…

Giống như việc này đã từng xảy ra. Tôi vừa làm nó theo thói quen.

“Quen thuộc chứ?” Anh ta hỏi. “Chúng ta đã trải qua việc này hàng chục lần rồi, anh ạ.” Anh ta thở dài, có vẻ kiệt sức. “Tôi quá mệt mỏi, tôi làm việc này nhiều lần đến mức tôi tự biến mình thành bạn anh. Dù trong thâm tâm tôi căm ghét anh vô cùng.”

Thế này là sao?

“Thế này là sao?” Đầu óc tôi lại quay cuồng. Nước bắt đầu dâng lên. Từ bàn chân, đến cẳng chân, đến đầu gối tôi. Nhìn quanh, tôi thấy bốn bức tường đã biến mất. Bốn bề thành biển. Tiếng đồng hồ quả lắc vang lên, tạo thành những làn sóng. Lần này không còn vô hình nữa, làn sóng ấy có thể thực sự tác động lên không gian. Từng lát cắt hình ảnh hiện ra giữa hai đỉnh sóng, lan rộng khắp phía, xô đẩy những vật dụng khác nhau, đẩy chúng trôi xa ra khỏi tầm nhìn của tôi.

Nước đã ngập ngang ngực. Cái lạnh giá hóa thành thực chất, thấm vào da thịt qua từng đợt sóng xô đến làm tôi run rẩy. Nhưng thay vì cảm giác mỏi mệt chán chường, lại có thứ khác làm tôi chú ý hơn: Người “bạn” đang ngồi đối diện. Anh ta không bị sóng tác động. Anh ta ngồi im, nước không làm ướt quần áo. Bất giác, tôi có cảm tưởng rằng mình đang ngồi giữa dòng thời gian, con sóng ở xa là tương lai, gần là hiện tại, đằng sau là quá khứ. Người đàn ông kia thì không bị thời gian ở đây chi phối, anh ta có thể quan sát mọi chuyện đã, đang và sẽ xảy ra ở hiện thực này, cùng lúc. Chúng tôi nhìn nhau thật lâu, rồi người kia thở ra một hơi thật dài, cúi xuống, thọc tay vào nước và rút ra mấy quyển sách thật dầy từ quá khứ giữa những con sóng.

“Anh từng là đứa trẻ tốt.” Anh ta thì thầm, có vẻ nuối tiếc. “Anh thích đọc truyện cổ tích, thêm cả sách về động vật và cây cối, chúng đây nè.” Anh ta giơ lên, mấy quyển sách biến thành bụi, rơi xuống, bị sóng cuốn đi. “Anh còn thích mèo, anh đã từng nuôi một con mèo đen, anh gọi nó là Bạn. Anh nhớ chứ?” Một con mèo hiện lên, đôi mắt xanh nhìn thẳng vào tôi, kêu meo meo. Rồi như quyển sách, nó tan ra. “Tôi đã dùng nó để gợi lại quá khứ tươi sáng của anh, dẫn dụ anh đến nơi tội ác xảy ra. Bạn tôi ơi, người bạn ác độc và đáng căm ghét của tôi. Tại sao anh lại giết người? Anh từng là đứa trẻ tốt bụng mà. Anh giết cô ta, anh còn mang xác cô ấy đến bảo tàng động vật làm gì? Đó là người! Anh ơi! Đó là người chứ không phải thú!”

Nước mắt tôi trào ra. Cả người tôi cứng lại. Xung quanh, những con sóng hóa thành xiềng xích, trói chặt tay chân tôi, không thể nhúc nhích. Người đàn ông kia đứng lên, hai tay anh ta chống hông, đầu cúi xuống. Trông anh ta hết sức mỏi mệt và bất lực.

“Tại sao anh làm thế? Tại sao anh không nhận tội? Anh đã làm cách nào? Nói tôi nghe đi bạn ơi, anh mang xác cô gái đó đến bảo tàng bằng cách nào? Tại sao không để lại dấu vết gì? Có phải anh giết ông bảo vệ không? Anh.. anh giết ba con khỉ đúng không? Làm sao anh tránh được mấy cái camera giám sát?”

Tôi lắc đầu, không đáp lời anh ta. Nước mắt vẫn chảy, ngực tôi đau nhói.

“Anh đã cố tự tử, nhớ chứ?” Anh ta nói tiếp. “Anh nhảy xuống từ chỗ này.” Anh ta chỉ vào khoảng không trước mặt, bục cửa sổ quen thuộc hiện ra, là chỗ tôi hay ngồi mỗi tối để nhìn ra đường. “Đây là tầng năm. Anh hối hận vì những gì mình làm à? Đúng không? Tôi nói có đúng không? Nhưng may là anh không chết, chỉ gãy chân và chấn thương sọ não thôi. Bạn ơi, tôi tin rằng bạn vẫn còn chút nhân tính. Cả hai ta đều quá mỏi mệt rồi. Việc đi ra đi vào đầu óc của bạn làm tôi khổ sở lắm. Nếu bạn xem tôi là bạn tốt của bạn, thì hãy nói cho tôi biết hết sự thật đi. Được không?” 

Bước đến bên tôi, anh ta đặt cả hai tay lên vai tôi rồi siết mạnh. Đôi mắt anh ta trợn trừng, từ trong đó, tôi có thể đọc được sự bất lực, phẫn nộ và cả mệt mỏi cùng cực.

“Tôi… tôi…” tôi lắp bắp. Bạn tôi, người bạn duy nhất của tôi! Tôi muốn nói cho bạn biết chuyện gì đã xảy ra lắm chứ. Tôi không muốn thấy bạn khổ sở như vậy đâu. Nhưng tôi không thể bạn ạ. Đầu óc tôi trống rỗng, tôi chẳng nhớ được gì ngoài bầy mèo và ba con khỉ cả.

Hai người chúng tôi nhìn nhau một lúc lâu. Tận cho đến khi làn sóng không thời gian ngừng lại. Bốn bề tĩnh lặng. Ngoài chúng tôi, không còn thứ gì hiện hữu ở nơi này. Trống rỗng, mệt mỏi và cô độc.

Đại dương đã ngừng chuyển động. Nó đã… chết?

Cuối cùng, người đàn ông thở dài. Anh ta nhắm mắt, có vài giọt nước lấp lánh chảy dọc theo gò má gầy gò xanh xao.

“Có vẻ như…” anh ta mở mắt, đưa tay gạt mấy giọt nước. “Não anh hỏng thật rồi, tôi chẳng có cách nào lấy được thông tin thực sự cả. Bạn tôi, tôi vừa yêu quý vừa căm ghét bạn. Vừa thông cảm vừa sợ hãi bạn. Bạn giống như một con thú ăn thịt được nuôi trong nhà, chẳng ai biết được lúc nào thú tính trong bạn sẽ trỗi dậy cả.”

“Thế… bây giờ phải làm sao?” Tôi hỏi, cơn xúc động tràn ra như thác lũ làm tôi nghẹn ngào.

Siết chặt vai tôi lần nữa, rồi anh ta đứng thẳng dậy. 

“Bạn là kẻ ác độc. Bạn đã giết người. Tuy không ai thấy bạn giết, không có bằng chứng, không có vật chứng, nhưng tôi tin bạn đã giết hai người kia. Tội ác của bạn lớn lắm, bởi vì họ chẳng liên quan gì đến bạn, họ không biết bạn, bạn không biết họ. Bạn giết họ, những người không quen biết, điều ấy cho thấy rằng bạn không hề xem họ là người.” Anh ta nói một tràng dài rồi dừng lại, như muốn lấy hơi hay ngẫm nghĩ thêm gì đó.

Tôi chẳng thể phản bác lại lời anh ta, cũng không thể nhận rằng mình là kẻ thực hiện tội ác. Bên trong tôi lúc này không còn cảm xúc gì cụ thể, mọi thứ đã vỡ tung, cuộn tròn vào nhau thành một mớ hỗn độn. Không vui, không buồn, không sợ, không giận; hoặc là vui buồn sợ giận cùng lúc, tôi chẳng rõ vế nào đúng nữa.

“Tôi sẽ lặp lại ngày hôm nay một lần nữa, bạn ạ.” Người đàn ông nói tiếp trong lúc ngồi xuống trước mặt tôi. “Lần cuối cùng, xem như là để tưởng nhớ cho tình bạn lạ lùng giữa hai ta. Nếu bạn vẫn không đi được đến cuối, nếu vòng lặp lại dừng lại trong viện bảo tàng như mấy lần trước, thì tôi rất tiếc, bạn ơi, tôi rất tiếc! Tôi sẽ phải báo cáo với cấp trên rằng không còn cách nào đào sâu hơn vào tâm trí của bạn. Và bạn biết không? Rất có thể họ sẽ rút ống thở, cho bạn được hưởng cái chết mà bạn mong muốn. Hai người kia, hai người bị bạn giết sẽ mãi mãi uất hận, mãi mãi không thể siêu thoát. Và tôi tin là chính bạn cũng sẽ mãi mãi trôi nổi giữa đại dương tâm trí trống rỗng vô hồn chỉ có hai điểm đến này. Hãy nhận lấy nó như một cái giá phải trả cho tội ác của mình đi, bạn nhé!”

Nói xong, anh ta búng tay. Không gian vỡ ra, đại dương bao quanh tôi chìm vào màn đêm đen kịt, chỉ còn tiếng thì thầm luẩn quẩn bên tai.

“Lắng nghe. Cảm nhận. Hoà nhịp.”

Tôi đã thấy con mèo ấy ba ngày nay, đúng vào lúc chín giờ tối mỗi ngày.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout