Truyện ngắn: Rạp chiếu nửa đêm
Tác giả: Nhật Huy
Hành lang dài, mờ tối. Đằng xa có ánh sáng xanh lấp loáng, lúc mạnh lúc yếu. Tiếng đế giày gỗ nện mặt sàn, nảy ngược lên va chạm với hai bức tường treo đầy poster phim ảnh rồi biến đổi tạo thành mớ hợp âm kỳ quái; nghe như tiếng người cười nói lao xao vọng đến từ cõi xa. Hai bàn tay tôi khô khốc, cảm giác rờn rợn kỳ quái của cơn gió vô hình vờn quanh da thịt làm tôi hơi sợ hãi, nhưng sự tò mò trộn với men rượu đã đè nén bản năng. Người phía trước bước rất nhanh, làm tôi có ảo tưởng rằng mình sẽ bị bóng tối đằng sau nuốt chửng mất nếu không bắt kịp nhịp chân của anh ta. Đã có hơn hai lần tôi định quay đầu, nhưng có gì đó - một thứ kỳ dị và mới mẻ - vừa được cấy vào óc đã ngăn tôi làm thế. Tôi chẳng nhớ rõ là nó xuất hiện lúc nào, cái ý tưởng điên khùng ấy. Có lẽ là từ khi tôi nhìn thấy tấm biển hiệu neon kia. Ngay góc đường nơi ngã ba vắng người qua lại.
Rạp chiếu Nửa Đêm - tấm biển đề thế. Ngay bên dưới là một dòng chữ nhỏ hơn, và có tính mời gọi hơn hẳn những lời quảng cáo tôi hay thấy: một đêm duy nhất, bộ phim sẽ thay đổi nhận thức của bạn về thế giới.
Thế là tôi đẩy cửa bước vào. Đó là sự kiện đã xảy ra năm phút trước.
Lùi xa hơn, nửa tiếng trước, khi bữa tiệc chia tay vừa kết thúc. Ký ức về sự kiện ấy đã vỡ vụn ngay từ khi tôi bước ra khỏi nhà hàng. Thứ duy nhất còn đọng lại là những gương mặt buồn bã có phần gượng gạo, những cái bắt tay có vẻ thắm thiết, kèm theo vô số câu chúc mà người nói và người nghe đều thấy rõ sự sáo rỗng bên trong.
À… tôi ghét chúng. Tôi ghét những cái mặt nạ người ta luôn đeo lên khi tiếp xúc với nhau. Tôi ghét từng câu từng chữ mà họ nhả ra, sau khi qua hàng trăm bộ lọc đầy toan tính. Có lẽ vì ngụp lặn trong sự bức bối quá lâu, nên tôi nghĩ rằng mình đã muốn một cái gì đó. Một thứ kỳ lạ, mới mẻ, và có thực; thứ có thể giúp tôi cảm nhận được sự tồn tại của bản thân trong thế giới này. Thứ đủ sức mạnh phá tung thực tại ảo não, đưa tôi vào một chuyến hành trình thú vị.
Có lẽ, tôi nghĩ rằng, mình có thể tìm thấy nó trong rạp chiếu phim này.
Khi sống càng lâu trên đời, con người ta càng có xu hướng nghi ngờ mọi thứ. Bởi vì sống lâu có nghĩa là họ đã trải qua nhiều sự kiện, trải qua những hy vọng hão huyền, trải qua những sai lầm lớn hoặc nhỏ. Chính những điều đó làm sự đề phòng trong lòng họ tăng lên theo số năm tháng hít thở bầu không khí ngày càng ô nhiễm này. Còn tôi, có lẽ do tuổi đời còn nhỏ, tôi chưa đủ chín chắn. Tôi ngây thơ, tôi còn tin vào những điều diệu kỳ đáng ra chỉ tồn tại trên màn ảnh hoặc trong những câu chuyện cổ tích huyền ảo. Đôi lúc, tôi thích để cho bản thân mình bị lôi kéo bởi những sự kiện không thể xác định là thật hay giả, gần giống con côn trùng hăng hái đập cánh lao đầu vào ảnh phản chiếu của một ánh đèn trong gương. Chắc chắn là sẽ đau đớn và bẽ bàng, nhưng ít ra nó cũng đã có một khoảnh khắc hào hứng đáng nhớ.
Nếu đây là mơ, thì tôi tin rằng đó là một giấc mơ hấp dẫn. Còn nếu đây là thực, thì nó còn hấp dẫn hơn cả một giấc mơ hấp dẫn.
“Xin chào!” Ai đó lên tiếng khi tôi bước vào sảnh chờ. Bên trong khá tối, chỉ có một bóng đèn nhỏ vàng vọt ở chỗ quầy gỗ nơi góc trái. Không khí lạnh và khô làm mũi tôi hơi ngứa ngáy.
Bước về phía quầy gỗ, tôi tin rằng âm thanh vừa rồi phát ra từ nơi đó. Quầy khá cao, nửa trên lắp kính tối màu, dù đã bước đến gần sát nhưng tôi cũng chẳng thể nhìn được phía sau.
“Chào,” tôi hắng giọng, hơi bất ngờ vì nhận thấy giọng nói của mình đã thay đổi. Không hẳn là một sự biến đổi rõ ràng, nhưng vì đã nghe giọng mình hơn hai mươi năm, nên tôi có thể nhận thấy sự khác biệt dù là nhỏ nhất. “Tôi muốn mua vé, bộ phim được quảng cáo ở ngoài đấy.”
“Ừm.” Người bên trong ậm ờ. Rồi mặt kính nhẵn thín xuất hiện khe hở, mở rộng thành một khe cửa sổ nhỏ. Từ đằng sau có một bàn tay đeo găng trắng thò ra, ngón trỏ và ngón giữa kẹp một mảnh giấy.
“Thế thôi à?” Tôi nhận mảnh giấy và ngay lập tức biết đó là một tấm vé, mặt giấy hơi nhám, và chữ bên trên thì phát sáng. “Không phải trả tiền sao?”
Ô cửa đã đóng lại.
Đây hẳn là một nơi chốn chứa đầy ma thuật. Giống như một cái rạp xiếc được dựng lên để che mắt người thường, còn bên trong lại là hang ổ của phù thuỷ? Tại sao tôi kết luận như thế? Bởi vì những con chữ trên tấm vé kia đang chuyển động. Chúng uốn éo, run rẩy rồi trở nên hấp tấp. Chúng lao xao một chốc rồi ghép lại thành hai chữ.
“Mười một.”
Tôi đã biết mình phải đi hướng nào. Đúng hơn: tôi thấy con đường mình cần đi. Nó hiện rõ trong tầm mắt tôi dưới dạng một sợi chỉ màu bạc lấp lánh. Tôi biến thành Hansel (hoặc Gretel, đứa nào cũng như nhau thôi) bước theo những mảnh vụn bánh mì, chỉ mong rằng không có con chim quái ác nào xơi hết số bánh ấy. Tôi không muốn lạc bước như chúng.
Hay là giống Alice nhỉ? Thôi, thế nào cũng được cả.
Lúc rời khỏi sảnh, bước vào hành lang thì tôi thấy anh ta. Đây ắt hẳn là Người Soát Vé rồi. Anh ta cao, chắc phải hai mét. Cổ thắt nơ đen, thân mặc vest. Anh ta nhìn thẳng vào tôi, đôi mắt to phát ra ánh sáng xanh nhạt.
“Xin chào, cho xem vé.” Anh ta nói. Giọng nhẹ nhàng.
Tôi làm theo, đưa mảnh giấy có mấy con chữ nhảy múa cho anh ta. Đúng lúc ấy đám ký tự kia lại chuyển động, lắp ghép thành từ mới. Trước khi Người Soát Vé Cầm lấy, tôi đã kịp đọc được. Lại là hai chữ.
“Xanh Lam.”
Xanh Lam? Có nghĩa gì nhỉ? Một màu trong dải màu cầu vồng? Một loại mật mã phù thủy? Hay là tên bộ phim?
Người Soát Vé nhét mảnh giấy vào một cái máy có tay quay, thứ mà rõ là một giây trước không có ở đó. Vật ấy có vẻ là đồ cổ, trông như một cái máy đánh chữ cỡ nhỏ, màu đồng đã ngả xanh, có khắc nhiều biểu tượng phức tạp. Theo động tác xoay tròn, tôi nghe được tiếng những bánh răng kim loại ma sát vào nhau, và cả tiếng cào mặt giấy sột soạt. Nghe như có nhiều đôi chân tí hon mang giày đế vải chạy trên ấy, dù cho cái sự cái sự ví von này thực là vô lý, nhưng tôi chẳng thể nghĩ đến bất cứ hình ảnh nào khác.
Ting! Âm báo như tiếng lò vi sóng. Anh ta trả lại tấm vé cho tôi. Mấy con chữ biến mất tích, chỉ còn lại một vòng tròn nhỏ màu xanh ngay trung tâm.
Thế rồi tôi bước theo anh ta. Chuỗi sự kiện đã diễn ra cùng hành động tôi đã làm không hề có chút logic nào. Hoặc có thể nói rằng tôi đã bỏ qua thói quen suy xét tính hợp lý của mọi thứ. Điều đó chẳng có ích lợi gì ở nơi này, tôi tin là thế. Bởi nếu Alice sợ con thỏ biết nói chuyện - thứ không có trong đời thực - thì có lẽ cô bé sẽ không bao giờ đến được Wonderland.
Nào, tôi đang háo hức lắm đây! Hãy cho tôi thấy Vùng Đất Diệu Kỳ đi nào!
Vừa đi vừa đảo mắt nhìn quanh, tôi nhận ra những tấm poster treo trên hai mặt tường dọc hành lang. Chúng là những tác phẩm vô cùng nổi tiếng. Tôi thấy Star wars, 2001: A Space Odyssey, The Wizard of Oz, The Thing, Pinocchio, E.T, Lord of the Rings; khi đếm đến hơn hai mươi phim thì tôi ngừng lại. Những bộ phim ở đây đều vĩ đại, đều mang dấu ấn của thời đại, và tôi chắc rằng chúng đã thay đổi cuộc đời của không ít khán giả. Thế thì thứ tôi sắp được thưởng thức là cái gì? Liệu nó có lớn lao và hấp dẫn hơn những cái tên đang nằm ngay ngắn trên tường kia không?
Hành lang này dài một cách vô lý (nếu nơi này còn tuân theo những quy tắc thông thường). Bước theo Người Soát Vé hơn mười phút tôi mới nhìn thấy cánh cửa phía trước. Cửa gỗ, sơn xanh. Bên trên có treo một cái lồng thuỷ tinh, trong lồng có những con côn trùng phát ra ánh sáng xanh đang bay lượn vòng quanh. Chúng là những con đom đóm.
Cộc! Cộc! Người Soát Vé gõ cửa.
Có tiếng bước chân nện lên mặt sàn, rồi đến tiếng chốt kim loại ma sát. Năm giây sau cửa mở, bên trong tối đen như mực. Không có ai bên trong. Mũi tôi ngửi được mùi cỏ cây thoang thoảng, dường như sau cánh cửa này không phải là một căn phòng mà là một khu rừng. Người Soát Vé đưa tay ra dấu mời, rồi nói.
“Mời vào. Mong quý khách sẽ có một trải nghiệm đáng nhớ.”
Không thể ngăn được nỗi háo hức nữa, tôi gật đầu với anh ta, bước nhanh qua cửa.
Rồi tôi rơi xuống.
“Công chúa! Nắm chặt tay ta!” Hoàng Tử hét lên với tôi. Một tay chàng ta nắm chặt gờ tường thành nham nhở của toà lâu đài, tay còn lại nắm tay tôi. Mũ giáp chàng sáng bóng, phần ngực có mấy vết nứt thật dài lấp lóa dưới nắng.
Ngay sau đó, tôi nghe một tiếng gầm kinh thiên động địa. Cúi đầu nhìn xuống, tôi không bất ngờ lắm.
Tất nhiên rồi. Đó là một con rồng. Toàn thân nó đen tuyền, đôi mắt đỏ rực. Cái đầu nó bự, miệng nó cũng bự, răng nhọn tua tủa. Khi nó gầm gừ, tôi nhìn thấy nhiều tia điện chạy ngoằn ngoèo và nổ lách tách giữa những cây răng.
Một con rồng điện? Có vẻ nguy hiểm hơn nhiều so với mấy con rồng chỉ biết phun lửa.
Con rồng nhìn tôi, ánh mắt của nó không dữ dội như tôi nghĩ. Nó lại gầm gừ, có vẻ như muốn truyền đạt một suy nghĩ gì đó, chỉ là tôi và nó không thể hiểu tiếng nói của nhau. Đôi cánh lớn của nó đập chậm và nhịp nhàng, giữ cho cơ thể khổng lồ lơ lửng trên không. Từng luồng gió mạnh táp vào làm cả người tôi chao đảo. Nếu tôi ngã xuống thì nó có cắn tôi không nhỉ? Mà đáng ra tôi nên hỏi là cái gì đã ngăn nó cắn tôi, ngay bây giờ.
Trong lúc đang ngẫm nghĩ thì Hoàng Tử đã kéo được tôi lên. Chàng ta thở hồng hộc, tay phải dù đang run rẩy nhưng động tác rút kiếm lại rất dứt khoát.
“A!” Tiếng thét của chàng thật là dõng dạc. Quả là một chiến binh gan dạ và quyết đoán. Chàng nhảy xuống, hướng thẳng đến đầu con rồng. Khi chân chàng chưa chạm vào lớp da của nó thì mũi kiếm đã đến trước.
Keng! Tiếng va chạm vang lên, chàng đã đâm thủng đầu con rồng?
Hoặc không?
Làm sao dễ dàng như thế được. Thanh kiếm tưởng như sắc bén kia đã vỡ nát. Tôi thấy rõ những mảnh vụn kim loại tung lên thành những cánh hoa lấp lánh dưới nắng. Nhưng người chiến binh ấy cũng không đặt hết hy vọng của mình vào thứ vũ khí mỏng manh ấy. Chàng bám vào cái vảy vừa mới bật lên của con rồng - kết quả của cú đâm vừa nãy. Rồi chàng rút từ bên hông ra một con dao màu trắng ngà.
Con dao ấy khác thanh kiếm. Tôi nheo mắt khi lưỡi dao lóe lên, và nhận ra nó có phép thuật.
“Muốn giết một con rồng, cần có vũ khí từ một con rồng khác.”
Có âm thanh trầm trầm chẳng biết từ đâu vang lên, nghe như tiếng của Chúa. Tôi vẫn nhìn vào trận chiến bên dưới, khung cảnh như bị đông cứng. Con rồng há miệng thật lớn, những tia điện chạy dọc sống lưng nó, hướng thẳng đến phần đầu, nơi có chàng chiến binh dũng cảm. Tay chàng ta giơ cao, lưỡi dao sáng lên rực rỡ. Âm thanh kỳ lạ kia lại vang lên. Tôi chợt nhận ra đó là giọng nói của Người Dẫn Truyện.
“Vũ khí sắc bén nhất, nguyên thuỷ nhất, chính là răng.”
Thì ra là thế, con dao kia là răng rồng. Tay chàng hạ xuống, tia điện leo lên. Tôi biết khoảnh khắc quyết định của trận chiến đang được làm chậm lại, kéo giãn ra; một kiểu kỹ thuật slow motion mà Zack Snyder ưu thích, nhằm tạo nên sự căng thẳng cho “khán giả” là tôi. Hoặc là lưỡi dao làm từ răng kia cắm thủng đầu con rồng, hoặc là tia điện sáng chói sẽ đốt chết chàng Hoàng Tử. Đây là khoảnh khắc mấu chốt của câu chuyện, là cao trào trong cuối hồi hai hoặc đầu hồi ba của kịch bản, rất thường thấy và dễ đoán.
Nhưng có thứ khó đoán hơn, không phải bản thân “bộ phim” đang được chiếu trước mắt; thứ thuộc về nhận thức của chính tôi hơn là nhân vật “nàng công chúa” này. Cái gì ngăn nó - một con rồng khổng lồ có vẻ hung hãn, rõ ràng đang đóng vai phản diện - cắn tôi lúc nãy? Đột nhiên câu hỏi ấy lại xuất hiện trong đầu tôi.
“Chờ đã!” Tôi giơ tay, nói. Và nhận ra giọng mình rất hay, đầy nữ tính nhưng cũng vô cùng cứng rắn.
Chàng Hoàng Tử ngẩng đầu nhìn tôi, đôi mắt xanh thẳm đong đầy vẻ hoang mang. Con rồng cũng thế.
“Sao… sao thế?” Chàng hỏi, tay vẫn nắm chặt con dao, mũi dao đã sắp chạm vào đầu con rồng.
Tôi đứng dậy, xách váy leo lên bức tường thành đổ nát. Rõ ràng, bộ trang phục trên người tôi đã xác định thân phận hiện tại. Tôi đáng ra phải đóng vai thiếu nữ yếu đuối, sợ hãi trước sự đe dọa khủng khiếp của con rồng, và vui mừng trước chiến công của Hoàng Tử. Rồi con rồng sẽ chết. Tôi và chàng sẽ nắm tay nhau, thề non hẹn biển trong lễ đường, đẻ ra một đám con nít, sống vui vẻ cùng nhau đến đầu bạc răng long. Cuộc đời sau đó chỉ được tóm tắt bằng vài câu đơn giản nhàm chán như thế, (lại, lần nữa) dễ đoán như câu bắt đầu kinh điển “ngày xửa ngày xưa”.
Có gì đó, một thắc mắc, một sự bức bối vừa trồi lên trong lòng tôi. Như một cái gai nhọn nhỏ xíu cắm vào thịt. Không đến mức đau đớn không chịu được nhưng đủ làm tôi khó chịu bứt rứt. Đủ làm tôi chỉ nghĩ về nó mà không phải bất cứ thứ gì khác, bao gồm lễ cưới và mấy đứa con nít.
Rồi tôi nhảy xuống. Khác với quy tắc vật lý thông thường, tôi lơ lửng giữa chừng không. Hai “nhân vật” kia vẫn nhìn tôi chăm chăm.
“Tại sao anh lại muốn giết nó?” Tôi hỏi chàng.
Hoàng Tử trợn mắt, miệng chàng há ra, biểu cảm trên mặt thể hiện rõ sự kinh ngạc. Câu hỏi của tôi có vẻ là nằm ngoài “kịch bản”, hoặc là quá mức ngu ngốc thiểu năng, đến mức làm chàng ta phải sững sờ.
“Tôi…” chàng ngập ngừng, nhìn vào con dao trong tay mình.
Quay sang con rồng, tôi hỏi tiếp.
“Còn ngươi, tại sao lúc nãy không cắn ta?”
Nó há miệng gầm gừ, tia điện nổ lách tách. Trong mắt nó, tôi đọc được một nỗi niềm u uất. Bất chợt tôi hiểu ra.
Một câu chuyện được kể, bằng bất kỳ hình thức nào cũng thế, đều sẽ dựng nên những bức tường vô hình, ngăn cản và kiểm soát hành động cũng như suy nghĩ của các “nhân vật”. Con rồng không cắn tôi, đơn giản là vì nó không thể làm thế. Tôi còn biết chắc rằng chính chàng Hoàng Tử kia cũng không hề thắc mắc rằng vì sao mình phải giết chết sinh vật khổng lồ có cánh ấy. Chàng cố hết sức mình với mục đích được đặt để sẵn trong lòng. Chàng cố hết sức làm tròn vai trò được viết cho chàng trong “kịch bản”. Ngay từ giây phút đầu tiên Hoàng Tử mở mắt hít thở, chàng chưa từng đặt câu hỏi về ý nghĩa của sự tồn tại, của chính chàng lẫn thế giới này, và của cả con rồng. Nó ở đó vì nó phải thế, chàng cũng y như vậy, không hơn.
Thế thì cuộc sống của tôi thì sao nhỉ? Tôi có đang hành động và cư xử theo một kịch bản được dựng sẵn không? Tôi có “tự do” đúng với bản chất của hai chữ đó không?
Tôi và Hoàng Tử, tôi và con rồng, tôi và chính tôi. Cuối cùng ai mới là tôi? Ai đang suy nghĩ? Ai đang hành động? Và vì lý do chết tiệt gì?
“Xin chào.” Âm thanh trầm trầm kia lại vang lên.
Ngẩng đầu lên, tôi nhìn thấy ông ta: Người Dẫn Truyện, Tác Giả, Chúa của thế giới. Là một người đàn ông trung niên, ăn mặc đơn giản, ngồi xếp bằng giữa trời. Giữa tôi và ông có một màn chắn bán trong suốt, mờ mờ như một tấm kính không phẳng.
“Chào,” tôi đáp, nhận ra giọng mình lại thay đổi, lần này không rõ là nam hay nữ. “Ông là người tạo ra nơi này?”
“Đúng.” Ông ta đáp khi đứng lên, màn chắn biến mất. Sau đó, hoặc là tôi bay lên, hoặc là ông ta hạ xuống, tôi không rõ cái nào mới đúng. Cảm nhận về không gian của tôi không còn chính xác nữa. Chúng tôi đã đứng đối diện nhau.
Đây chắc hẳn là một giấc mơ. Chỉ hơi kỳ quặc là tôi lại biết mình đang mơ. Nếu tôi giữ được sự tỉnh táo và ý chí của mình trong giấc mơ, thì liệu đó có còn là giấc mơ không nhỉ? Hay là chính nó đã hoá thành thực tại, rồi cái “thực tại” tôi vốn nghĩ mình đang sống trong đó hoá ra chỉ là một giấc mộng kéo dài từ năm này qua năm khác? Một, không, là hai lucid dream bất tận, đan xen, lồng ghép, hòa lẫn vào nhau ở một số đoạn rồi tạo thành những khoảnh khắc mơ màng như thế này?
Hoàng Tử và con rồng biến mất, Người Dẫn Truyện đứng cạnh tôi, trên một vách đá cao. Tầm nhìn biến đổi đột ngột trong lúc bản thân đang thất thần làm tôi hơi choáng váng.
“Cậu không thích thể loại huyền ảo à? Thế thì bối cảnh này thì sao?”
Thế giới đã đến ngày lụi tàn, ở một tương lai xa xôi đến mức chẳng ai tưởng tượng được.
Đầu óc tôi trống rỗng trong vài giây, cho đến lúc suy nghĩ kia xuất hiện thì tôi mới giật mình. Suốt khoảng thời gian tất cả các sự kiện trên diễn ra mình đã ở đâu? Đống thông tin ấy chạy thẳng vào đầu tôi như một đoạn mã được thêm vào để đảm bảo phần mềm hoạt động trơn tru.
Nhìn quanh một vòng đỉnh đồi, tôi đã thấy một cái nắp kim loại tròn, đường kính chừng ba mét dưới đất. Bề mặt sần sùi cũ kỹ, chứng tỏ nó đã nằm nó lâu lắm rồi. Lớp rỉ sét bao phủ gần hết nắp kim loại, chỉ còn thấy được số Mười Một lờ mờ.
Thông tin mới hơn hiện trong đầu tôi, tự nhiên như việc hít thở, như nó vốn đã ở đó lâu lắm rồi.
Đây là hầm trú số mười một? Còn tôi là một trong số ít nhân loại còn tồn tại? Chuyện gì đã xảy ra với thế giới? Tôi nhìn người bên cạnh mình, ông ta còn chẳng phải là người. Đó là một con rô bốt có cơ thể cơ khí. Lớp da bên ngoài của ông ta đã rã ra, để lộ các khớp nối kim loại bên trong. Chỉ còn phần đầu là gần như hoàn hảo. Ông ta nhìn tôi, đôi mắt rất linh động.
“Cảm giác thế nào khi được chọn là người sống sót?”
Lướt mắt qua thành phố đổ nát bên dưới ngọn đồi, nhìn những cột khói xám xịt bốc cao, tôi có thể thấy hàng loạt khung cảnh hiện lên như hình chiếu lập thể, sống động như thật. Rừng hóa thành sa mạc, sông ngòi cạn kiệt, chim thú chết đi. Con người ở phút giây đó bắt đầu thể hiện ra bản năng nguyên thuỷ của mình. Họ đánh nhau, rồi giết nhau để tranh giành thức ăn. Rồi xung đột bùng lên như dịch bệnh thế kỷ, không thể ngăn cản hay đảo ngược. Kẻ mạnh là kẻ có vũ khí mạnh, kẻ mạnh là kẻ chọn đúng phe, nhưng họ cũng đâu biết rằng dù mạnh đến mức nào cũng có ngày phải gục ngã khi xung quanh không còn đủ các yếu tố tạo nên sự sống.
Một thế giới hoang tàn rệu rã, nhuộm đẫm tông màu chết chóc.
Thế thì, “làm người được chọn” còn có ý nghĩa gì nữa không? Cho dù vì bất cứ nguyên do gì dẫn đến sự diệt vong của xã hội loài người, thì nó cũng đã kết thúc. Dù đã trải qua hàng trăm năm kể từ ngày thế giới này lụi tàn, thì một khởi đầu mới trên nền tảng là những mảnh vụn cũng chẳng thể xem là một khởi đầu tốt đẹp. Con người vẫn là con người, họ vẫn có hàng trăm cách để hủy hoại cuộc sống của chính mình: ô nhiễm, bùng nổ dân số, khủng hoảng lương thực, xung đột tôn giáo sắc tộc, cuối cùng là chiến tranh hạt nhân; tất cả đều bắt đầu chậm rãi, nhưng khi đã gia tốc đủ lâu thì chẳng còn cách nào có thể ngăn cản được nữa.
Tôi là kẻ “may mắn” sống sót, nhưng không có nghĩa tôi có thể bắt đầu một hành trình mới tươi sáng. Tôi chẳng thể chối bỏ việc mình cũng là nhân loại, điều ấy củng cố cho luận điểm vừa xuất hiện trong đầu tôi: đây cũng chỉ là một vòng lặp mới mà thôi. Tôi sẽ gặp người ở những hầm trú khác, kết hợp với họ để sinh ra thế hệ tiếp theo, rồi những thế hệ đó sẽ giẫm vào dấu chân cũ của thế hệ trước. Thế giới do con người dựng nên sẽ bị chính con người phá hủy, hết lần này đến lần khác.
Đó quả là một vòng lặp đau khổ, nhưng mỉa may thay, cũng nhàm chán và (lại, lần nữa) dễ đoán đến nực cười.
Thế thì, tôi cảm giác như thế nào khi được chọn là người sống sót?
Tôi có vũ khí, một khẩu súng bắn tia laser đeo bên hông. Ngay khoảnh khắc nhận ra điều đó, tôi rút súng, chĩa thẳng vào con rô bốt kia.
“Cậu có muốn làm người tiên phong, kiến tạo lại thế…”
Tôi bóp cò súng khi con rô bốt chưa nói xong. Tia laser xanh lam phun ra, xuyên thủng hộp sọ kim loại của ông ta. Chất lỏng màu vàng nhạt bắn ra tung toé cùng với một đống hợp chất bầy nhầy trông như đậu hũ pha lẫn linh kiện điện tử. Thì ra đầu ông ta cũng có não. Hai con mắt còn dính ở nửa phần đầu còn lại mở trừng trừng ra vẻ kinh khiếp, nhưng khóe miệng lại nhếch lên thành một nụ cười mỉa mai mờ nhạt.
Trước đó năm giây, tôi đã ra quyết định.
Tôi sẽ săn lùng con người! Từng người một cho đến kẻ cuối cùng! Luật lệ đâu còn ý nghĩa gì nữa, thế giới này, hành tinh này không cần nhân loại. Tôi sẵn sàng đóng vai người phán xử, hay là Chúa, hay kẻ đồ tể, cái quái gì cũng được tất!
Khoái cảm lạ lùng tràn ra từ não bộ, rồi len vào từng khớp xương thớ thịt của tôi. Siết chặt khẩu súng trong tay, lần đầu tiên trong đời tôi hiểu được cảm giác của “kẻ cầm quyền”. Có thể đưa ra quyết định mà không cần phải dò xét phản ứng của bất kỳ ai khác ngoài bản thân mình. Thì ra, thì ra, quyền lực tối cao chỉ có thể nằm trong tay của một người ích kỷ. Tôi bật cười vì cái “sự thật” trần trụi mình vừa khám phá ra.
Két! Âm thanh kim loại ma sát vang lên đằng sau, tôi quay đầu.
Nắp hầm số mười một mở ra.
Có người đi lên.
Tôi chĩa súng vào cái đầu lấp ló, bóp cò, không hề do dự. Người đó, dù là ai, là nam hay là nữ, thì cũng nên cảm thấy biết ơn tôi. Bởi sớm thôi, anh ta (hay chị ta) sẽ thấy tuyệt vọng khi biết rằng mình chẳng thể ngăn chặn được sự xoay chuyển đã được định sẵn của bánh xe vận mệnh; và chính mình rồi cũng sẽ bị cuốn vào một trận chiến mới nhằm tranh giành số tài nguyên ít ỏi vừa được thiên nhiên tạo ra sau trăm năm con người trốn dưới lòng đất.
Đã thế thì chết luôn đi cho nhanh! Hãy nhận lấy “cái chết” như một ân huệ đi!
Đầu người đó nổ tung như một quả dưa hấu. Máu đỏ bắn ra thành trăm cánh hoa rực lửa. Bàn tay cầm súng của tôi vẫn giữ nguyên một chỗ, không hề run rẩy. Còn tôi, không hề thấy hối hận.
“Ác quá! Mình ác quá!” Tôi thét lên trong khi adrenaline tuôn như thác lũ.
“Quả là một kịch bản đột phá. Phản nhân loại, nhưng rất hấp dẫn.”
Ai đó vừa lên tiếng. Quay sang nơi âm thanh phát ra, tôi thấy đôi môi của con rô bốt hình người kia mấp máy. Thì ra nó chưa chết.
“Tôi tò mò rằng bạn sẽ làm gì ở bối cảnh xa xôi hơn.” Nó nói tiếp.
Tôi mỉm cười, nhìn nó một lúc. Đôi mắt nó lấp loáng, từng tia sáng chiếu ra, thay đổi không gian xung quanh. Giống như một cái máy chiếu lập thể trong phim viễn tưởng.
Lại một cú jump cut, lần này tôi có thể cảm nhận được sự thay đổi của không gian và thời gian, hệt như một cú trượt chân kéo dài hàng thế kỷ, khi đứng dậy thì “thông tin” của thế giới mới tiếp tục chảy vào đầu. Có vẻ “đạo diễn” của bộ phim này rất thích kiểu kể chuyện nhiều dòng thời gian, phi tuyến tính, khá giống Cloud Atlas.
Vũ Trụ không ngừng nở rộng. Ngoài Trái Đất, có hàng tỉ tỉ hành tinh đất đá khác có đủ điều kiện để duy trì sự sống. Chúng tôi đang trên đường bay đến Kepler-62f. Hành tinh này lớn hơn Trái Đất khoảng bốn mươi phần trăm, và cách xa một nghìn hai trăm năm ánh sáng.
Con tàu Exile 11 đã bay trong không gian Vũ Trụ hơn mười hai ngàn năm, với tốc độ tối đa bằng một phần hai vận tốc ánh sáng, tăng tốc nhờ lực hấp dẫn của hố đen. Tất nhiên con số mười hai ngàn năm ấy là thời gian được tính theo đồng hồ trên Trái Đất, còn đối với người trên tàu thì ngắn hơn nhiều. Thêm nữa, chúng tôi được ngủ đông trong suốt khoảng thời gian ấy nên hành trình tưởng như vô tận này lại chỉ giống một giấc mơ dài mà thôi.
Chúng tôi sẽ được đánh thức khi tàu còn cách Kepler-62f chừng ba tháng. Đó là khoảng thời gian phù hợp để chuẩn bị mọi thứ cho quá trình đổ bộ. Tất nhiên chúng tôi - một nghìn một trăm người trên tàu - không phải là những cá nhân duy nhất được lựa chọn cho dự án Trái Đất 2.0. Theo thông tin được các chính phủ công bố rộng rãi thì có hơn hai mươi con tàu tương tự được gởi đến các hành tinh khác nhau.
Để tham gia vào hành trình này, tôi và những người bạn đồng hành cần có sự dũng cảm và ham muốn được sống mãnh liệt. Trái Đất sẽ diệt vong, đúng ra là nó đã diệt vong. Hơn mười ngàn năm đã trôi qua, tôi cho rằng hành tinh ấy đã không còn bóng dáng của con người nữa rồi. Thế hệ tiếp theo nếu còn có thể tồn tại thì chắc hẳn sẽ có hình dạng khác hẳn, đã tiến hóa để có thể thích nghi với môi trường khắc nghiệt - hậu quả do thế hệ trước gây ra.
“Chào mừng, số mười một.” Trí tuệ nhân tạo Blue nói với tôi sau khi thực hiện quy trình Thức Giấc. Không gian xung quanh có gì đó không đúng lắm, thiếu tiếng người và vắng vẻ một cách đáng sợ.
Những người còn lại đâu? Ánh sáng đỏ nhấp nháy trên trần là sao? Còn âm thanh bip bip liên tục kia nữa?
“Thế…” Miệng lưỡi tôi cứng ngắc, giấc ngủ dài làm những cử động cơ bản cũng trở nên khó nhọc. “... là thế nào?”
“Có sai sót trong thuật toán kiểm soát nhiệt độ của kén ngủ đông.” Blue nói, âm thanh đều đều.
“Hả?”
“Cô là nhân loại duy nhất còn sống.”
“Cái gì?”
“Chúng ta còn cách Kepler-62f một trăm ba mươi sáu năm, theo đồng hồ trên tàu.”
Tôi im lặng. Blue tiếp.
“Rất tiếc vì chuyện đã xảy ra, nhưng tôi phải đánh thức cô dậy theo quy trình khẩn cấp, và cũng không thể tái ngủ đông với trang thiết bị hạn chế trên tàu.”
Có lẽ, Blue không thực sự thấy “tiếc” vì làm thế. Và có lẽ, tôi thực sự cần dũng cảm vô tận để hoàn tất hành trình kéo dài sự sống cho nhân loại.
Họ - những nhà khoa học, những nhà xã hội học, những nhà tâm lý học lỗi lạc - rõ ràng đã lường trước mọi chuyện tồi tệ có thể xảy ra. Chi tiết đến hoàn cảnh cực đoan cuối cùng: chỉ còn duy nhất một người sống. Exile 11 mang theo một ngân hàng tinh trùng đông lạnh, người sống (tất nhiên phải là phụ nữ thì mới được, đó cũng là lý do tỷ lệ nữ giới chiếm đến 60 phần trăm số người tham gia) phải sử dụng số tinh trùng ấy để tạo ra thế hệ nhân loại mới. Nguồn gen đã được kiểm soát và chọn lọc, giảm tác hại của việc giao phối cận huyết xuống mức thấp nhất.
Trách nhiệm ấy tất nhiên đã rơi vào vai tôi. Tôi trở thành Eve, nhưng không có Adam.
Cũng không có Chúa trời tồn tại nơi đây, và vì thế, đây không phải là Thiên Đàng.
Eve không ăn trái cấm, nhưng vẫn rơi khỏi vườn địa đàng.
Tôi từng thắc mắc rằng Địa Ngục trông như thế nào. Có lửa cháy khắp xung quanh không? Có mùi thịt khét lấp kín khoang mũi không? Có tiếng gào thét không bao giờ dứt của những linh-hồn-tội-lỗi-nhưng-khốn-khổ không? Cho đến lúc này.
Thì ra, Địa Ngục vốn đã có sẵn trong mỗi chúng ta rồi. Chúng ta sẽ chìm sâu vào đó khi không còn bất cứ niềm hy vọng nào để mà bám víu; khi ta không dám tự kết liễu mạng sống của mình vì sợ hãi hay là trách nhiệm đang mang, dù cho ta không còn lý do gì để sống. Lúc ấy, mỗi ngày đều sẽ là địa ngục. Ta tự giày vò, tự than trách, rồi đến tự an ủi rằng sẽ sớm qua thôi, mọi thứ sẽ khá hơn.
Nhưng có khá hơn thật không? Hay đó chỉ là lời dối trá ta tự nói ra để huyễn hoặc chính mình?
Lạy Chúa, tha lỗi cho con. Nhưng lúc này, xin Ngài hãy phái Satan đến, giết chết con khi con đang say ngủ như một ân huệ cuối cùng. Hãy bảo hắn ta mang con xuống Địa Ngục thực sự, bởi vì nơi đó trông có vẻ còn tốt hơn nơi con đang ở.
Còn một trăm ba mươi sáu năm nữa mới đến đích. Exile 11 có hệ sinh thái, có thể trồng cây, có hệ thống tổng hợp dinh dưỡng. Tôi cần lựa chọn, hay nói đúng hơn là tôi có thể lựa chọn; ít ra đó là quyết định mang tính nhân đạo của vô số bộ não thiên tài và hết sức vị nhân sinh đã tạo ra chương trình này.
Một: sống hết khoảng thời gian còn lại, một mình trên tàu.
Hai: để Blue trợ giúp, thực hiện thụ tinh nhân tạo, sinh ra thế hệ tiếp theo, duy trì sự tồn tại của nhân loại đến khi đổ bộ lên miền đất hứa.
Lần này không có xung đột trực tiếp, không có khoảnh khắc hành động bùng nổ như hai lần trước, nhưng lại đè nặng lên tâm trí của “nhân vật”, gây ám ảnh và khổ sở ghê gớm. Tôi nhận ra rằng, bản thân mình - một nhân loại như lời Blue thuyết minh - là một giống loài bầy đàn. Dù có cố chối bỏ đám đông đến mức nào thì vẫn rơi vào khủng hoảng khi lâm vào hoàn cảnh bị cô lập, bị tách rời khỏi quê hương, khỏi thế giới cũ là Trái Đất, khỏi những nhân loại tương tự. Tôi ngồi im trong trạng thái xuất thần, liên tục ba ngày. Cho đến khi sức sống gần như cạn kiệt thì mới đưa ra quyết định.
Mọi câu chuyện đều sẽ thay đổi ở thời điểm nhân vật chính chọn A thay vì B. Khán giả có thể đồng ý hoặc phản đối với quyết định của nhân vật, nhưng phần nào đó trong họ sẽ thấy hứng thú với những thứ xảy ra tiếp theo. Bởi vì đó không phải là cuộc đời của họ, lựa chọn ấy không ảnh hưởng đến tương lai của họ. Họ có thể chê bai, phán xét, hay thương cảm. Nhưng dù có dành ra bao nhiêu cảm xúc, thì họ mãi mãi không thể hiểu được suy nghĩ thực sự của nhân vật.
Ồ, Khán Giả à, ra anh là kẻ như thế. Một kẻ tham lam, ích kỷ và chỉ muốn được chứng kiến người khác phạm sai lầm hay rơi vào nỗi thống khổ tột cùng. Nhưng anh biết không, dù sao đi nữa thì tôi cũng không thể oán trách anh. Bởi tôi biết, mình cũng đã từng, hoặc đang, hoặc sẽ trở thành khán giả như anh. Ngồi im ở đó, trên cái ghế êm ái trong phòng ngủ hay rạp phim, và để những “nhân vật” ấy thỏa mãn ham muốn hay mộng tưởng về những thứ mà bản thân chẳng bao giờ có được. Bởi tôi biết, phán xét dễ hơn sáng tạo. Anh hay những người xem, những độc giả tương tự anh có thể dễ dàng đưa ra hàng loạt phương hướng giải quyết vấn đề khác nhau, từ hợp logic cho đến phi thực tế; bằng hàng đống cách thức phối hợp ngôn từ khác nhau, từ ngắn gọn súc tích đến phức tạp bay bổng. Vì dù sao, thế giới trên màn ảnh kia không phải của anh, và anh sẽ có xu hướng cho rằng nếu mình cầm bút - với quyền năng tuyệt đối ngang Chúa - thì có thể bẻ cong mọi thực tại lẫn quy tắc bằng cách nhồi nhét hàng loạt lý do lẫn ý kiến chủ quan của riêng anh.
Nhưng, Khán Giả, đến cuối cùng việc “kể chuyện” là để làm gì? Để thỏa mãn cái tôi của người kể? Để ve vuốt cảm xúc của người xem? Để phục vụ cho một lý tưởng từ thực dụng đến cao cả nào đó? Hay đơn giản chỉ vì câu chuyện ấy “cần được kể”, để nó không biến mất sau vài phút xuất thần bên bàn viết? Nó cần được kể vì bản thân nó muốn thế, vượt khỏi ý chí của chính người viết nên đó? Anh nói đi, nói xem vì sao tôi và anh lại đồng hành cùng nhau đến tận bây giờ, vì sao Anh phải xem Tôi vật lộn giữa hai lựa chọn, trong khi không có cái nào thực sự giải thoát tôi khỏi hoàn cảnh trớ trêu này?
Đến cuối cùng, để câu chuyện này có thể đi đến đoạn kết, tôi vẫn phải đưa ra quyết định. Thế nào, anh thấy chưa? Thấy quyết định của tôi chưa? Anh có hài lòng với nó hay không? Hay là anh sẽ tức giận rồi đòi hoàn lại tiền vé; anh tức giận vì mọi chuyện không theo ý anh; anh tức giận vì anh nghĩ: nếu ta là người viết ra kịch bản này thì bộ phim - hay thế giới của tôi - sẽ hay hơn trăm lần, hả anh Khán Giả?
Quả là, lần nữa, một suy nghĩ dễ đoán đến nực cười.
“Exile 11 bị một mảnh thiên thạch đâm vào khi còn cách Kepler-62f sáu mươi chín năm hành trình. Lúc đó trên tàu có bốn mươi ba thành viên. Dự án Trái Đất 2.0 thất bại, không có bất cứ phi thuyền nào đến đích. Sau sáu ngàn năm kể từ sự kiện Đại Tuyệt Chủng, loài người một lần nữa xuất hiện trên Trái Đất.”
Giọng Người Dẫn Truyện vang lên, mấy trăm khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Tôi ngồi lọt thỏm giữa rạp chiếu, đầu óc mờ mịt. Toàn bộ câu chuyện vừa được kể tưởng như thật sâu sắc, nhưng cuối cùng ngẫm nghĩ lại thì chẳng có chút ý nghĩa gì đọng lại. Nó giống một trải nghiệm thị giác sống động hơn là bộ phim có kịch bản hoàn chỉnh. Nó tạo ra cảm giác mơ hồ thay vì đưa ra đầu mối để nhận định.
Vừa định đứng lên thì người đàn ông bên cạnh tôi quay sang, mỉm cười. Đôi mắt ông ta bắt được tia sáng máy chiếu, hiện lên nhiều hình ảnh lấp loáng. Ánh mắt này sao lại quen thuộc thế nhỉ? Tôi có cảm giác mình đã thấy nó nhiều lần rồi.
“Còn bạn thì sao? Bạn lựa chọn gì?” Ông ta hỏi tôi.
Đinh Đoong! Đồng hồ ở đâu đó điểm mười hai giờ đêm, buổi chiếu phim kết thúc. Tôi chẳng nhớ mình đi ra khỏi rạp chiếu bằng cách nào. Khi quay lại nhìn, tôi cũng không thấy cái bảng hiệu neon đâu nữa. Thọc tay vào túi quần theo thói quen, tôi chạm phải thứ gì đó. Móc ra, là một mảnh giấy, mặt giấy hơi nhám, cạnh dưới nham nhở như vừa bị xé ra từ tập. Tự dưng, một cảm giác chán nản lan tràn trong tôi, rồi trong một chớp mắt, chán nản hóa thành bực dọc. Vo tròn mảnh giấy, tôi ném nó vào thùng rác cạnh cột đèn.
“Mình đã chọn gì nhỉ? Mà tại sao mình phải lựa chọn? Để làm gì?” Tôi lầm bầm, đá lon nước rỗng bên vệ đường.
Cái lon văng lên, đập vào cạnh thùng rác, phát ra âm thanh leng keng rồi rơi ngược xuống một bãi nước đọng. Những vòng sóng bắt được ánh sáng đèn đường, lấp lánh lan rộng ra. Không chỉ có nước, không gian cũng đang rung lên. Đằng sau tôi vang lên tiếng kêu của ai đó, tông giọng trầm thấp và quen thuộc.
“Cắt!”
Đèn tắt, một ngày của tôi kết thúc.
Tiếng đồng hồ đinh đoong vẫn vang vọng, hàng trăm dòng chữ trắng hiện lên trên nền đen, lấp kín “thế giới” của tôi. Qua thật lâu mới thấy một chữ thật to, với font thật đẹp che hết “màn hình”.
Fin.
Hết.
Bình luận
Chưa có bình luận