Truyện ngắn: Một phương thuốc quý
Tác giả: Nguyễn Tâm
I
Cổng thành dán thông cáo “Công chúa ốm nặng. Hoàng gia chiêu mộ thần y. Nhà vua sẽ sắc phong Hầu tước cho kẻ nào chữa khỏi bệnh cho Công chúa.”
Tin được ban ra, đầu tiên là các hàng thuốc và các tiệm sách cổ được một phen hốt bạc, tiếp đó những nơi thâm sơn cùng cốc vốn quanh năm chẳng có dấu chân người, nay có dịp được nhiễm chút nhân khí qua lại.
Hầu tước là gì? Trong triều đại này, đây là chức vị cao nhất mà một tên dân thường có thể chạm tới. Những người nắm tước này hiện giờ đều là những dòng họ có công lập quốc hoặc nhiều đời hộ quốc. Người đời thường trộm than với nhau rằng màu đỏ trên quan phục của Hầu tước thực chất được nhuộm từ máu mà thành.
Người trong hoàng thất ốm nặng theo lý không phải là việc đáng mừng trong nước, thế mà khi thông cáo được ban ra, từ sang quý đến bần hàn đều như mở cờ trong bụng. Phải nói rằng từ thời dựng nước tới nay, lần đầu tiên chức Hầu tước lại hạ mình xuống gần tầm với của bọn thường dân tới vậy. Chỉ cần bỏ sức kiếm vài thứ cỏ cây hoặc sừng vảy hiếm lạ chứ nào phải xông pha trận tiền gió tanh mưa máu.
Ai sẽ là người được phong Hầu? Phương thuốc như thế nào mới có thể đổi được chức Hầu? Đó là hai câu hỏi bàn mãi chẳng nhạt, hễ có một người xướng lên thì ắt trăm miệng xung quanh đều nhất tề họa cùng mà tranh cãi rôm rả.
II
Con bé Kẹt là một đứa con gái nhà quê không có gì đặc biệt. Nó có đầy đủ hoàn cảnh của một đứa trẻ nhà nghèo điển hình. Nhà đông con, bố rượu chè cờ bạc, mẹ nó và ba anh chị trên nó nai lưng ra cấy thuê làm mướn khắp làng cũng chỉ đủ tiền rượu và trả nợ cờ bạc cho bố.
Một đêm nọ, bố nó thông báo quyết đánh “ván cuối” rồi xin chừa hẳn cờ bạc. Không rõ cụ thể bố nó đã thề bồi với mẹ nó ra sao, Kẹt chỉ biết rằng, sau ba hôm bố nó mất tích với lời nhắn “xin lỗi cả nhà, tôi làm thế này cũng là do hoàn cảnh đưa đẩy”, nó và chị gái bị chủ nợ đến bắt đi cùng ổ gà và con chó mực. Thật ra bọn bắt người chỉ định bắt chị gái nó cùng gà và chó, nhưng khi đó trong nhà còn có nó, thấy chị bị người ta lôi đi thì nó gào khóc ngăn cản. Bọn bắt người đành tặc lưỡi ôm cả nó theo.
Ở chỗ buôn người, nó và chị gái bị tách nhau ngay sau đó. Chị gái nó khỏe mạnh, xinh xắn được một nhà giàu mua ngay, lần này, dù nó có nài nỉ khóc lóc thế nào, bên mua cũng nhất quyết không chịu mang nó đi cùng.
Kẹt ở chỗ buôn người cho đến một sáng, ông chủ dẫn một người đàn ông không râu và một ông lão tới. Ông lão nhìn một lượt, bỏ qua những đứa có vẻ béo tốt khỏe mạnh mà đi thẳng tới chỗ nó. Đến trước mặt Kẹt, ông lão cầm tay, rồi bắt nó lè lưỡi rồi gật gù ra chiều hài lòng lắm. Hai người nhanh chóng trả tiền mua nó trước ánh mắt ngỡ ngàng của lão buôn người. Lão không ngờ một đứa gầy còm như nó có thể bán được một món hời như vậy.
Nó được đem tới một nơi cổng cao ngói thắm, khắp nơi đều sơn son thếp vàng, một nơi mà một đứa nhà quê như nó có nằm mơ cũng chẳng thể tưởng tượng ra.
Kẹt được cho ở với một đám con gái tuổi tác tương đương. Đứa nào đứa đấy đều trông ốm yếu hệt như nó. Kẹt mới đến, còn lạ chỗ nên nó chỉ dám ngồi co cụm ở một góc. Mấy đứa đến trước thấy phòng thêm người cũng chẳng buồn bận tâm. Cả căn phòng gần chục người sống nhưng lại vắng lặng như nhà mồ. Dường như mỗi người đang theo đuổi một nỗi sầu lo riêng nhất.
Tuy vậy, Kẹt cũng chẳng bận tâm, nó còn mải tận hưởng quãng thời gian đầu tiên trong đời được mặc quầo áo lành lặn, ăn no hai bữa và nằm giường. Đêm đó, Kẹt còn không dám ngủ, nó sợ nhỡ ngủ quên, sáng mai tỉnh giấc nó sẽ lại trở về cái lều nát ngày xưa.
Nó ở đó được mấy hôm thì có người đến dẫn nó đi. Người này đi rất nhanh, Kẹt gần như phải chạy mới đuổi kịp. Mới được một quãng nó đã thấy tức ngực, buồn nôn, thở khò khè, tai cũng ù đi. Nhưng nó không dám xin người kia đi chậm lại. Nó vốn yếu như vậy từ nhỏ. Nó luôn là gánh nặng cho những ai làm việc hay chỉ đơn giản là đi cùng nó. Kẹt sợ nếu xin người kia đợi mình, rồi nhỡ việc thì nó sẽ bị trả về chỗ buôn người, rồi lại phải ăn đói mặc rách.
Đi qua một khu vườn có lô nhô núi giả, Kẹt nghe loáng thoáng có tiếng người xì xào:
Lại thay người thử thuốc cho công chúa rồi à? Tháng này đã phải đổi sáu người rồi đấy.
Chết rồi không đổi thì lấy ai ra thử thuốc? M* nó chứ, cứ với cái đà này mấy tháng nữa mà công chúa chưa khỏi bệnh thì cả cái cung này chết hết mất.
Cái mồm! Muốn cả nhà mày chết theo đấy phỏng? Liệu cái thần hồn!
Kẹt ở nơi này đã mấy hôm, tuy mấy đứa con gái ở cùng vẫn không ai nói chuyện gì với nhau, nhưng những người được gọi đi rồi không trở về, tiếng khóc thút thít vào buổi tối đã khêu lên trong lòng Kẹt tia dự cảm không lành. Nghe ngóng loáng thoáng, nó đã biết đây là hoàng cung, nơi Vua và gia đình của ngài ở. Nó cũng biết công chúa đang ốm bệnh. Giờ nghe mấy câu bàn tán này, những câu chuyện lấy thịt người làm thuốc, căn bệnh phải sống dựa vào máu người, ăn tim người để chữa bệnh cứ thế rủ nhau xoay qua xoay lại trong đầu nó, níu đôi chân nó đi chậm dần lại rồi dừng hẳn.
Nó sợ. Giữa nơi cung vàng điện ngọc, Kẹt chợt thấy rét run, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khiến nó rùng mình. Từ trong nỗi sợ chông chênh giữa thực tại và huyễn hoặc đấy, thốt nhiên nó nhớ “nhà”. Nó nhớ tới hơi ấm từ vòng tay mẹ, từ cái ôm của anh chị nó. Nghĩ cũng nực cười. Trong mấy ngày được ấm êm trước đó, Kẹt chưa từng nhớ đến người nhà.
Người dẫn đường thoạt trông giống như chỉ chăm chăm đi thật nhanh về phía trước, vậy mà ngay khi nó dừng lại, người kia đã phát hiện ra, quay đầu lại gắt:
Mày mà không rảo chân bước nhanh lên, muộn giờ thuốc của Công chúa thì mày nát xác đấy con ạ!
Kẹt giật mình, vội vã chạy theo người nọ. Không phải lần đầu nó nghe đến từ “nát xác”, ở nhà nó nghe người lớn đe nhiều, nhưng bản năng mách nó biết cái từ “nát xác” được thốt ra ở nơi cung cấm này chắc chắn khác nhiều so với nơi quê mùa nhà nó và cái bản năng sống còn đấy thúc đôi chân nó chạy nhanh hơn, bỏ lại nỗi sợ vẩn vơ bị nấu thành thuốc khi nãy. Biết sao được, ở nơi này, nó nào còn con đường khác?
III
Mới cuối hạ đầu thu vậy mà tẩm điện của Công chúa đã như vào ngày đông chí. Kẹt và người dẫn đường phải đi qua cơ man nào là trướng gấm màn nhung. Ở mấy lớp màn đầu tiên, Kẹt còn có sức trầm trồ nhìn rồi áng chừng với chỗ gấm nhung này có thể may quần áo ấm cho bao nhiêu người? Chỗ hột xoàn kim tuyến đan mắc trên đó nếu gỡ ra bán thì được bao nhiêu thóc? Thế nhưng Kẹt nào phải chỉ đi qua có một hai lớp màn phủ. Nó được người ta dẫn đi sâu mãi vào trong. Sâu đến mức ánh sáng mặt trời bị thay thế bởi ánh nến.
Tầng tầng lớp lớp nhấc lên phủ xuống như con dao bào gọt hết đi những tò mò háo hức của Kẹt mang vào từ bên ngoài, thay vào đó là vài hình ảnh tưởng tượng hoang đường, nó thấy nó sẽ lướt mãi lướt mãi qua đám vải vóc này đến mãn đời, lại có lúc nó thấy mình sơ ý sảy chân ngã ra rồi bị đám vải vóc vàng bạc này cuốn chặt đến mục xương.
Giữa cơn mơ ngày như say đấy, Kẹt bỗng giật mình choàng tỉnh bởi hơi nóng cùng mùi thảo dược bất ngờ phả thẳng vào mặt. Trước khi kịp nhìn rõ xung quanh, nó đã bị ấn quỳ rạp xuống, trên đầu nó là tiếng người dẫn đường:
Bẩm Công chúa, con đã đưa người thử thuốc đến rồi ạ.
Một giọng nữ lanh lảnh đáp lời:
Thuốc vẫn đang sắc, cứ ở đó chờ đi.
Kẹt lúc này quỳ trên sàn nhà, đầu cúi thấp khiến nó chỉ thấy mênh mang thảm lông thú phủ dày trước mắt. Chờ một chốc, đoán chừng như mọi người chẳng ai thèm để ý đến mình, Kẹt táo gan nhẹ xoa tay lên mặt thảm. Thảm ấm và thơm mùi thảo dược, lông thú mượt mà êm ái làm nó nhớ đến con chó mực ở nhà, đương nhiên, lông con Mực thô cứng hơn cái thảm lông này nhiều lắm, lại còn hôi nữa, vậy mà không hiểu sao Kẹt lại vô thức nhớ đến.
Quỳ thêm một chốc, hơi ấm trong phòng quyện cùng mùi thảo dược khiến nó lâng lâng dễ chịu, bắt đầu thiu thiu ngủ. Kẹt thầm nhủ quả đúng là tẩm điện của Công chúa, đến cái sàn nhà mà có thể dễ chịu như thế này. Giá thử được đem cái thảm này về nhà làm chăn đắp, thì cả nhà nó sẽ đỡ phải đốt phân trâu bò để sưởi ấm ngày đông. Người của nó sẽ không còn bị ám mùi ngai ngái khen khét.
Giấc ngủ và nó chưa kịp quyện vào nhau thì đã bị chia tách bởi tiếng cười khúc khích cùng tiếng nói chuyện:
Con nhóc này gớm mặt thật, vào đây mà dám ngủ gật.
Thể trạng của nó tương đương Công chúa nhiều đấy. Phản ứng của nó với thảo dược xông cũng giống bảy phần. Mấy đứa trước vào đến đây quỳ một lúc đã mồ hôi như tắm, bứt rứt không yên. Công công và Thái y tìm được nó cũng vất vả lắm đây.
Kẹt giật mình, tỉnh ngủ, nó ngẩng đầu hướng về phía có giọng nói. Trước mắt nó là hai cô gái mặt hoa da phấn đang nhìn nó tủm tỉm cười. Hai người này trâm vàng cài đầu, vòng ngọc đeo tay, xà tích dắt lưng có phần xa hoa rườm rà hơn so với những người Kẹt thấy trong mấy ngày qua, tuy vậy, búi tóc cao hai bên vẫn thể hiện rõ thân phận tôi tớ. Kẹt đoán đây có thể là tỳ nữ thân cận của Công chúa. Một trong hai cô đang bưng một khay đồi mồi, bên trên là niêu ngọc. Cô còn lại cầm một chiếc bát sứ, cô đón lấy ánh mắt ngơ ngác của Kẹt, khẽ cười, đoạn đưa cho nó cái bát:
Thử thuốc đi, cảm thấy thế nào thì nói rõ ra cho Thái y nghe.
Lúc này, Kẹt mới nhận ra trong phòng còn có một người nữa. Vị này chính là một trong hai người đã mua nó, nó đoán đây là “Thái y”.
Nhận lấy bát sứ, trong ánh nến vàng vọt nó đoán chừng màu thuốc nơi hoàng cung cũng là một màu đen hệt như màu thuốc ở nhà quê của nó. Kẹt đưa bát lại gần khẽ ngửi. Không cay gắt như mùi thuốc mà mẹ nó uống lúc ốm, thứ thuốc này có mùi thơm ngọt thanh nhẹ. Kẹt nuốt nước bọt, kề miệng bát húp một ngụm, rồi, nó húp cạn bát. Hơi ấm từ thuốc chạy lan từ lưỡi xuống họng, dọc một đường xuống bụng, tỏa khắp tứ chi làm Kẹt thở hắt ra dễ chịu. Nhìn cái bát còn mỗi đáy, nó đưa mắt về cái niêu ngọc kia tợp miệng thòm thèm.
Chao ôi, đây nào có phải là thuốc? Nếu thực là thuốc thì bảo sao mà cô Công chúa kia cứ chịu ốm mãi. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, có lẽ cho đến mãi về sau, đây là bát thuốc ngon nhất đời nó. Vị thuốc ngọt, béo nhưng không ngấy, thanh thanh quyện cùng một chút đắng nhẹ rồi lại trở ngọt hậu vị. Kẹt mới uống nửa bát mà đã cảm thấy toàn thân khoan khoái.
Trước đây cũng như lúc mới vào chỗ này, toàn thân nó lúc nào cũng lạnh lẽo, là kiểu rét từ trong ruột rét ra, dù có sưởi ấm đắp chăn thế nào cũng chỉ là ấm ở ngoài da thịt. Vậy mà lúc này đây, hơi ấm từ bát thuốc len sâu vào từng thớ thịt của Kẹt, mồ hôi toát ra lấm tấm trên trán, đọng li ti trên đầu mũi, hơi thở của nó cũng sâu hơi, nhẹ hơn chứ không còn khò khè như ban đầu. Nếu giờ này mà mang nó ra ngoài trời ngắm nghía, người thấy nó mấy giờ trước có lẽ sẽ chẳng thể nhận ra nó. Da của nó đã chuyển màu từ vàng ệch, xanh xám thành hồng hào nhuận sắc.
Thái y đứng bên cạnh âm thầm quan sát toàn bộ quá trình Kẹt uống thuốc, lúc này, ông cầm tay Kẹt xem xét. Biểu hiện mạch của Kẹt dường như khiến thái y giật mình, ông sai người mang thêm mấy cây gương nến lại gần, bắt nó lè lưỡi, vạch mắt kiểm tra.
Cũng phải nói thêm rằng, tuy hiện giờ là ban ngày, nhưng tẩm điện công chúa được bọc kỹ trong màn nhung trướng gấm nên mặt trời chẳng thể len được tia sáng vào được, vì thế, để nhìn rõ mọi thứ đều cần dựa vào ánh sáng của nến.
Trong ánh sáng vàng vọt đấy, Kẹt thấy râu của vị thái y già rung lên từng hồi sau mỗi lần nhìn trái ngó phải nó, mặt ông đỏ phừng, trán và thái dương đầy mồ hôi nhưng ông chẳng màng lau đi. Ông ngắm nghía nó rồi lại cầm tay nó mấy lượt, mãi sau, ông ta mới gật đầu, rồi hướng về phía trướng gấm, lạy sâu rồi kính cẩn thông báo:
Bẩm Công chúa, phương thuốc được dâng này có hiệu nghiệm tốt trên người thử thuốc.
Một trong hai người tỳ nữ xinh đẹp hỏi:
Tốt là tốt cỡ nào? Lần trước ông cũng nói cái phương kia dùng tốt. Vậy mà Công chúa uống vào rồi nôn đến ba hôm sau. Chẳng qua Đức vua và Công chúa thương ông già cả, chứ với sơ suất đó vào nơi khác thì ông làm gì còn được đứng đây?
Vị thái y già khẽ run, vội vàng gật đầu như gà mổ thóc:
Vâng vâng cô dạy phải, cô dạy phải. Đội ơn ân đức như trời bể của Đức vua cùng Công chúa… Không phải tôi muốn bao biện cho cái bất tài của mình, nhưng nếu để đánh giá đúng phản ứng của thuốc thì cũng phải dựa nhiều vào mức độ tương đương thể trạng của người thử thuốc và Công chúa. Ở người thử thuốc trước…
Người tỳ nữ còn lại, ngắt lời thái y:
Như lần này, người thử thuốc và Công chúa thể trạng khá tương đương, ông chắc chắn chứ? – ngừng lại một lát, nàng nhấn mạnh – Nếu lần này có sai sót…
Vị thái y ngập ngừng, quay lại nhìn Kẹt một lượt lâu nữa rồi gật đầu:
Chắc đến tám phần. Xin Công chúa dùng thuốc.
Một giọng nhỏ, yếu ớt cất lên:
Mang vào đây.
Kẹt đoán đấy là giọng của Công chúa. Bởi sau đó, người cầm cái khay có niêu ngọc tiến vào trong màn gấm, có tiếng lách cách của thìa bát vang lên. Lại một lúc lâu nữa, người tỳ nữ kia bước ra, mặt lộ ra vui mừng, túm lấy tay thái y:
Công chúa ngồi dậy được rồi. Ông mau vào xem, mau vào xem…
Cả tẩm điện Công chúa được một phen náo động, kẻ ra người vào tấp nập không dứt. Công chúa ốm nằm liệt giường bao lâu, nay có thể ngồi dậy hẳn là chuyện vui mừng. Để chữa bệnh cho Công chúa, nhà Vua còn chẳng tiếc tước Hầu, thế thì thân làm kẻ bề tôi, qua lại thăm nom hỏi han để lấy lòng, để Công chúa nhớ mặt hẳn là việc rất nên làm.
Dẫu rằng Công chúa lấy lý do vẫn ốm mệt không tiếp khách, nhưng quà cáp cùng thiệp mừng vẫn dẫn nhau kéo vào điện Công chúa chật ních.
IV
Công chúa muốn có thêm một bát thuốc như thế nữa e rằng hơi khó…
Kẻ đang quỳ gối tâu bẩm này chính là người dâng phương thuốc nọ. Sáng sớm nay được tin báo có lệnh triệu vào cung, hắn đã mở cờ trong bụng, cười suốt dọc đường, hễ gặp ai dù chỉ hơi quen mắt, hắn cũng vội túm ngay lại để khoe hắn đang vào Cung nhận tước Hầu. Hắn hoàn toàn tự tin vào năng lực chữa bách bệnh của phương thuốc hắn dâng.
Thế nhưng các cụ nói cấm sai “vui quá hóa buồn”, có lẽ quỷ thần trên hai vai đong đếm thấy dọc đường hắn vui đã đủ, nên khi đến Hoàng cung thay vì được nhận tước, hắn được nhận lệnh giao thêm thuốc cho Công chúa.
Nghe yêu cầu, nụ cười trên mặt hắn tắt lịm. Hắn âm thầm nghiến răng kèn kẹt. Hoàng gia đúng là hoàng gia, tham lam vơ vét của quý của tốt đã ăn sâu vào cốt tủy. Giống như là khi biết có thứ quý giá đang tự do rong chơi ngoài cửa cung sẽ khiến cho cả hoàng thất mất ngủ chán ăn vậy.
Công chúa cất tiếng cắt đứt mạch suy nghĩ của kẻ dâng thuốc. Giọng nàng nhẹ, thỉnh thoảng hụt hơi, chẳng phải thầy thuốc cũng nghe ra giọng của người mới ốm dậy:
Có khó gì sao? Như ta thấy lúc dùng thuốc thì cũng chỉ là cánh gà hay chim gì đó hầm cùng thảo dược. Ngươi cứ kê phương ra, còn lại thái y trong cung có thể tự xoay sở được, không phiền đến ngươi.
Kẻ kia bật cười, nhưng lại nhận ra tiếng cười đấy vào tai bề trên có thể khép vào tội phạm thượng, hắn vội cúi đầu thưa:
Những thảo dược hầm cùng thì con tin trong cung có đủ cả. Nhưng cái cánh mà Công chúa cho là cánh gà hay cánh chim kia mới thật ngàn vàng khó kiếm. Giờ phải bày trận vây bắt thì quả là rườm rà rắc rối lắm ạ.
Công chúa khẽ cau mày liễu, hỏi:
Đó là loài chim gì mà hiếm lạ như vậy?
Bẩm Công chúa, phương thuốc của ngài phải dùng đến cánh thiên thần để hầm đấy ạ.
Hồ nghi dâng lên kéo theo một tràng ho dài, một lúc sau, Công chúa mới hỏi lại, giọng điệu không giấu sự ngờ vực:
Thiên thần? Cái loại giống người nhưng có cánh trong truyện dân gian đó ư? – Công chúa ngừng một lát rồi nâng giọng cười giễu – Ngươi nói hôm rồi ta vừa ăn cánh thiên thần hầm thảo dược?
Thưa vâng, đấy là cái cánh thiên thần ông cố con để lại làm vật trấn phong thủy trong nhà thờ họ đã hơn trăm năm. Nay cũng vì ham chút vinh hiển của Hầu tước nên con mới lấy ra làm thuốc dâng người đấy ạ.
Từ ghế cao, Công chúa được tỳ nữ đỡ tiến lại gần kẻ đang quỳ, nàng lẳng lặng quan sát hắn. Mắt lươn, râu trê, rặt là hình dong của bọn gian thương. Sống trong cung cấm đã lâu, nàng lạ gì dăm ba mánh khóe thổi phồng khoa trương này. Muốn kỳ kèo để moi thêm lợi sao? Thứ dân đen thấp hèn như hắn đáng ra nên nhuần nhuyễn cái lẽ chỉ có vua quan mới có quyền lấy đi, còn như hạng hắn, cái dạng ếch nhái mà muốn ngoi lên bờ thì chỉ có kết cục lột da căng trống mà thôi, có tiếng to đấy, nhưng… Trong đầu Công chúa thoáng điểm tên vài kẻ mình biết rồi nhìn xuống kẻ đang quỳ, khẽ cười.
Thật ra, từ hôm hắn đến dâng thuốc, trong cung đã đã nắm rõ được phân lượng thảo dược qua một lượt kiểm tra độc tính. Duy chỉ có cái cánh đen xì, khô quắt hắn cho vào hầm cùng thì đến giờ Thái y viện vẫn đang cãi nhau đấy rốt cục là cánh con gì. Loay hoay mãi mới phải triệu hắn vào để hỏi, thế mà hắn giở trò điêu trá với hoàng thất cơ đấy? Hẳn là cánh thiên thần? Nàng nào phải bọn trẻ ranh cả tin vào mấy thứ huyền hoặc đó nữa.
Công chúa khẽ hừ, giọng đanh lại:
Ngươi có biết tội khi quân phạm thượng hiện giờ xử ra sao không mà dám nói nhăng nói cuội?
Kẻ kia vội cúi thấp xuống, dập đầu lia lịa:
Xin Công chúa rộng lòng xem xét, con không có gan dối gạt đâu ạ. Thuốc của người thật sự được làm từ cánh thiên thần. Hiện giờ không kiếm đâu ra ngay được một thiên thần để lấy cánh, nên là, nên là…
Nên là ngày mai ngươi sẽ đi kiếm về đây cho ta. – Công chúa lạnh lùng ngắt lời, đoạn, bổ sung thêm – Ngày mai ta sẽ đến quan sát quá trình bắt cái thứ mà ngươi gọi “thiên thần” kia. Nếu có chút gian dối nào… thì đếm nhân khẩu ba họ rồi đóng sẵn áo quan đi.
Hắn hoảng hốt vội vàng sụp xuống lạy van xin lấy chút thương xót. Khóc than một hồi mà chẳng thấy có ai đáp lời, hắn ngẩng đầu chỉ kịp thấy bóng lưng của đoàn hầu vội vã rước Công chúa về tẩm điện nghỉ ngơi.
Thế đấy – kẻ dâng thuốc cay đắng nghĩ – những tưởng đem vật trấn phong thủy ở nhà thờ họ ra để đổi lấy vinh hoa phú quý, quan tước oai phong, giờ đổi lại cũng là cả họ được áo quan đấy, mỗi tội là áo quan này là áo quan để nằm chứ chẳng phải áo quan để mặc như hắn từng mơ.
V
Kẻ dâng thuốc kia cũng thật là tên có tài khôn khéo. Sau khi bị Công chúa bỏ lại trong sảnh khách, tưởng như hôm sau sẽ là ngày giỗ chung của ba họ, vậy mà không rõ hắn xoay sở nhờ vả ra sao, cuối cùng Công chúa cũng đồng ý gia thêm cho hắn mười ngày để chuẩn bị buổi đi săn thiên thần.
Có lẽ, mười ngày chuẩn bị này là mười ngày hắn và cả họ nhà hắn nghiền ngẫm hết cái ý thâm sâu của câu “chim chết vì mồi, người chết vì danh”. Nếu hắn và cả họ nhà hắn không ham cái tước Hầu, không ham cái màu áo huyết dụ kia, thì nào ai phải bôn ba mà mua lấy nhọc nhằn.
Mười ngày qua đi. Công chúa đúng hẹn xuất hiện.
Cả tộc nhà hắn đều cung kính ra cửa quỳ đón. Thấy cảnh tượng già trẻ lớn bé lô nhô đầy trước mặt, Công chúa chỉ thoáng nhìn rồi buông lời ngọc:
Cũng khá đông đủ nhỉ? Lát nữa, nếu hỏng việc đỡ tốn công lùng bắt.
Đám đông đồng loạt rùng mình, lén đưa mắt về phía tên gây chuyện. Mấy cụ cao niên thổi râu phù phù. Cứ để chuyện này qua êm xuôi xem, thằng nhãi kia nhừ đòn với cả họ.
Phải nói rằng, kẻ kia vốn rất được lòng người trong họ. Khi hắn đến xin cụ trưởng tộc vật trấn phong thủy trong nhà thờ, nội bộ tộc cũng đã cãi vã vài phen mới đi đến thống nhất. Ai mà chẳng từng nghe câu “một kẻ làm quan cả họ được nhờ”. Huống chi đây là tước Hầu. Cả họ chẳng mất một binh một tốt nào mà vẫn được hưởng cái bóng mát của Hầu tước thì chẳng là lãi lắm sao? Họ nhà này bao đời chăm chỉ làm ăn, tiền bạc cũng tạm nhưng cũng chỉ dừng ở cái chức phú ông, làm sao mà rạng rỡ danh diện bằng chức Hầu cơ chứ. Các ông vai vế cao trong họ bàn bạc chán chê rồi cũng chẹp miệng bảo nhau:
Nói đến cùng thì cái vật kia ở nhà thờ cũng là để phù hộ cho dòng tộc mình ăn nên làm ra. Giờ có cơ hội tép tôm trẩy hội phong vân thì mình cứ thử liều một phen các ông ạ.
Nào ai ngờ một lần liều này là làm liều đến mức khiến cho nhà thờ họ sắp không còn người hương khói.
Mười ngày qua là mười ngày cả ba họ nhà này đạt mức độ đoàn kết toàn diện nhất từ ngày kết thông gia. Từ già trẻ lớn bé đến thanh niên trai tráng trong họ, dù đang làm gì ở đâu đều nhận được thông báo khẩn. Trong mấy ngày, những người này đã tìm ra được ghi chép của cụ cố về cách bắt thiên thần, tìm nơi lập bẫy, thu thập nguyên vật liệu, dàn dựng pháp trận… Hết ngày thứ tám, còn một vài thứ tìm mãi không ra, cả họ như kiến bò chảo nóng. Tìm không ra thì trận pháp không thể dựng, công sức mấy ngày qua coi như công cốc, thế này thì chịu chết cả họ ư?
Giữa lúc rối ren đó, có một đứa cháu trong họ đưa ý kiến đào mộ cụ tổ lên xem trong đống đồ tùy táng có nguyên liệu cần tìm hay không. Nếu là ngày thường, cái đứa ngỗ nghịch đấy và cả bố mẹ nó chắc chắn sẽ bị lôi ra sân thờ tổ, đánh cho gẫy vài cái roi rồi đuổi khỏi họ. Thế mà lần này, ý kiến vừa đưa ra chỉ vướng một thoáng im lặng, sau đó từ trên xuống dưới đều gật đầu đồng lòng nhất chí. Một số người còn khen đứa đưa ý kiến là sáng dạ.
Trước lúc đào mộ cụ tổ, có một cụ cao niên trong họ nhớ đến dăm điều nghi lễ, cụ bảo:
Giờ đang trưa nắng, hay là ta chờ đến đêm rồi hẵng đào lên, coi như một lần cải mộ cho cụ cố.
Nhất tề là tiếng lao xao:
Giờ này là giờ nào rồi mà cụ còn chăm chăm lo lắng dăm ba thứ mê tín đấy. Mình cũng có chắc trong mộ cụ cố có đủ đồ mình thiếu hay không, phải đào lên ngay nếu còn thiếu thứ gì thì còn tìm cách xoay sở cho kịp chứ.
Cũng biết là có lỗi với cụ, nhưng ông xem, còn nhõn một ngày, sống chết của cả trăm mạng chứ nào có ít. Thôi thì lạy cụ, cụ cố sống khôn thác thiêng, cụ thương con thương cháu, không trách cứ gì chúng ta đâu. Con cháu làm thế này cũng là cùng đường bí lối mà thôi.
Sau đó ai ai cũng gật đầu phụ họa:
Cũng là bất đắc dĩ mà thôi, nào ai muốn thế…
Cũng may cho ba họ nhà đấy, những thứ họ thiếu đều tìm thấy trong mộ cụ cố. Không rõ đấy là cụ cố làm nghề tâm linh lâu năm đã tiên đoán được tai họa này mà cố tình giữ riêng cho đám con cháu hay chăng? Nếu vậy thì cụ chọn chỗ cất giấu cũng thật là tài tình oái oăm, làm khó cho những kẻ lễ nghĩa hiếu thuận. Còn giả như lúc chuẩn bị hành trang về nơi chín suối, cụ chẳng mảy may tính toán kỹ càng đến thế, thì đây cũng coi như là cái may, cái phúc đức cụ gói ghém để dành lại cho đám hậu thế chưa gặp mặt bao giờ.
Dù có đồn đoán theo hướng nào thì mộ cũng đã đào rồi, Công chúa giờ đã đến cửa, cả ba họ này qua hôm nay được uống rượu mừng hay rượu cúng tất cả trông chờ vào mấy canh giờ kế tiếp.
VI
Bẫy thiên thần được đặt trên một đỉnh đồi cao, không xa làng của kẻ dâng thuốc. Khi đến nơi, ngồi trên kiệu nâng, Công chúa có tầm nhìn cao hơn hẳn so với người thường. Từ kiệu, nàng có thể nhìn rõ toàn bộ trận pháp bẫy thiên thần. Nàng nghiêng người, hỏi kẻ dâng thuốc:
Bẫy là một cái hố dát vàng? – Công chúa quan sát một lượt rồi khẽ cười mỉa mai – Thiên thần mà cũng ham vàng bạc sao?
Kẻ kia cúi đầu thưa:
Bẩm Công chúa, theo ghi chép thì nơi thiên thần sống có gạch vàng lát đường, nên muốn dụ thiên thần xuống đây thì xung quanh phải dát vàng, như thế có thể làm thiên thần nhầm lẫn nơi đây vẫn là địa phận hắn sống.
Công chúa liếc xuống đôi hài thêu đính ngọc trai, mã não của mình đang đặt lên sàn kiệu gỗ đàn hương, rồi lại nhìn cái hố dát vàng đang lóng lánh sáng rực dưới ánh nắng sớm:
Cao sang kiêu kỳ đến thế sao? Chỉ đặt chân lên nền dát vàng? – Ngừng một lát, nàng khẽ nghiến răng – Rồi cánh cũng chỉ để ta hầm thuốc uống mà thôi.
Nhận thấy Công chúa khó chịu, kẻ kia cúi đầu càng sâu:
Bẩm, Công chúa dạy phải ạ. – Hắn ngưng một lát, nghiêng đầu nhìn bóng nắng rồi quay lại thưa – Hiện đã đến giờ tốt, xin Công chúa buông lời ngọc cho đám con dân chúng con bắt đầu khai đàn ạ.
Làm đi.
Công chúa phẩy tay ra hiệu, tiếp đó ngả vào gối mềm, nghiêng người quan sát đám người trước mặt bắt đầu hô hào nhau bê cái này vác cái kia nhốn nháo lộn xộn như một đàn kiến chạy lụt. Ý nghĩ này khiến nàng thấy thú vị. Dưới chân nàng quả đúng là một đám kiến nàng có thể tự do đùa giỡn theo ý muốn. Lấy đồ của chúng, bắt chúng vất vả lao khổ, bắt chúng sống, bắt chúng chết… dù nàng có làm gì thì đám kiến đấy vẫn phải cúi đầu tạ ơn. Không rõ những kẻ này hôm nay giở trò gì, nếu thành công thì nàng có thể miễn cưỡng nhận lấy thuốc rồi tha tội chết, còn nếu chúng bày ra mấy trò phù thủy tạp kỹ vớ vẩn, không sao, nàng có thể nhìn ra tiềm lực tiền bạc của chúng, có cớ thu vàng bạc đất đai về tay thì chuyến này nàng đi cũng không lỗ.
Nhìn chủ tế đi xuống giữa hố vàng, Công chúa khẽ cựa mình, tiếp tục chìm vào suy nghĩ. Tính ra nàng vẫn mong những kẻ này thật sự bắt được thiên thần hơn. Vàng bạc trong kho dù chưa dư thừa nhưng cũng chẳng thiếu thốn. Cái nàng thiếu là sức khỏe. Cái thân thể ốm yếu này kiềm tỏa nàng biết bao. Nếu nàng có sức khỏe, dù vướng phải phận nữ nhi, nàng tin mình có đủ tiền tài cùng trí tuệ để can thiệp được vào triều chính sau này. Lúc đó, nàng mới thật sự có được tự do mình mong muốn.
Tiếng đàn sáo réo rắt vang lên, tiếp đó là tiếng hát, điệu múa dập dìu hòa nhịp. Công chúa nhấc mình ngồi thẳng dậy để quan sát một lát, chừng như không rõ trước mắt đang là trận pháp bẫy thiên thần hay biểu diễn ca kịch, nàng cau mày nhìn sang bên cạnh. Kẻ dâng thuốc nãy giờ vẫn đứng hầu bên Công chúa, thấy nàng nhìn xuống mình, hắn rất nhanh bắt ý, đoạn cúi đầu giải thích:
Bẩm Công chúa, đây là ông anh họ con lãnh trách nhiệm chủ tế đang thực hiện nghi lễ khai đàn. Mấy ngày qua con cũng góp nhặt được ít nhiều từ ghi chép của cụ cố. Công chúa có nhã ý muốn nghe một chút để giải khuây không ạ?
Nhận được cái gật đầu của Công chúa, kẻ kia chỉ về phía cái hố dát vàng hình bát giác rộng cỡ một sào cùng lô nhô những người với người bắt đầu giải thích:
Thiên thần là loài sống trên trời, không vướng khói bụi trần gian, chẳng biết đến sầu lo nhân thế. Thói thường, mình chưa trải cái gì thì sẽ tò mò muốn thử cái đó phải không ạ? Cũng vì thế mà tiền nhân đã nghĩ ra cách dụ thiên thần như ngài đang thấy đây. Đầu tiên đào một cái hố hình bát giác, sau đó dát vàng lên trên, ở mỗi góc của hình bát giác lại để một cái bát đựng đầy nước mắt…
Công chúa nghe đến đây thì nhíu mày hỏi lại:
Nước mắt?
Kẻ kia gật đầu, tiếp lời:
Vâng, là nước mắt. Nhưng không phải dạng nước mắt xoàng của mấy đứa trẻ ranh bị đòn đánh đâu ạ. Mà đấy phải là tám dạng nước mắt của nhân gian. Một là nước mắt của đứa trẻ mới sinh và mẹ của nó. Hai là nước mắt của tuổi già bất lực. Ba là nước mắt của kẻ bị hành hạ bởi bệnh tật. Bốn là nước mắt của kẻ giã từ trần thế. Năm là nước mắt của đôi lứa phải lìa xa nhau, của người phải rời xa vật hắn ưa thích. Sáu là nước mắt của những đôi oan gia phải ngày ngày đối mặt. Bảy là nước mắt của những kẻ không có được điều mình mong. Tám là nước mắt kẻ điên. (1)
Hắn kể đến đó thì ngừng lại, nuốt nước bọt, hơi chột dạ. Thật ra bát nước mắt thứ tám được miêu tả cầu kỳ hơn thế nhiều, nhưng trong mười ngày ngắn ngủi, bọn hắn chẳng thể xoay sở kịp để kiếm đâu cho đủ loại người gặp từng loại xung đột ngũ uẩn. Loay hoay một hồi thì tất cả thống nhất theo sáng kiến của một người trong họ. Kẻ đó bảo:
Nói cho cùng khi đầu óc xung đột hay bức bối kiểu gì đến cùng cực không giải quyết được đều dẫn đến điên cả. Nên các ông bà cứ đi gom nước mắt mấy đứa điên về đi cho nhanh được việc
Lại nói sách vở thời trước để lại đã qua hơn trăm năm, hư hoại khó hồi phục được, những ghi chép hắn tìm được chắp vá lại để bày ra trận pháp này chỉ là nhìn bóng rắn vẽ rồng. Lúc làm thì không thấy vấn đề gì. Nhưng giờ đây trình lại cho Công chúa, hắn đâm thấp thỏm. Nhỡ như kiến giải của mọi người còn thiếu sót, dẫn đến trận pháp không trọn vẹn thì không những uổng công mà còn dẫn đến họa diệt tộc.
Trận pháp chỉ đơn giản có thế thôi sao?
Thấy Công chúa lên tiếng hỏi, kẻ kia vội vàng gạt lo lắng sang bên, tiếp tục giải thích:
Với một loài quý như thiên thần thì sao có thể bắt đơn giản như thế được ạ. Tám bát nước mắt đấy được đặt lên ba viên đá là ba loại đá khác nhau. Một loại đá lấy ở đỉnh núi cao nhất, một loại đá lấy ở vực sâu nhất và một loại đá được tạo ra ở động đá vôi lớn nhất. Ở dưới bát nước mắt, đặt viên than đốt để bốc hơi lên, sẽ có tám đứa túc trực ở cạnh bên để liên tục đổ đầy. Con nói là viên than vì công dụng đốt nóng của nó, chứ thực ra viên than này được tạo ra cũng lắm kỳ công. Nó được làm từ một trăm linh tám loài hoa đủ bốn mùa từ trên non đến dưới nước, đặc biệt mỗi loài hoa phải nhặt đủ thời kỳ, từ lúc hoa đương nụ đến hàm tiếu rồi mãn khai cuối cùng là tàn úa. Đem chỗ hoa đó phơi khô rồi nghiền ép thành bánh. Chọn ngày xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí, để dựng lò đốt than. Dưới đáy bát kia phải có đủ bốn viên than đốt trong hai ngày chí và hai ngày phân. Khi đốt lên, mùi của viên đốt quyện cùng mùi nước mắt sẽ thu hút thiên thần.
Nói đến đây, chỗ bọn họ đứng chợt sáng rực lên ánh cầu vồng. Ánh sáng đỏ, vàng, lục, lam, chàm… luân phiên nhau vẽ vân hoa lên nền đất. Mọi người nhất loạt ngẩng đầu nhìn lên trời cao. Trên cao xanh lúc này có một đám mây ngũ sắc lấp lánh ánh xà cừ tuyệt đẹp, có thể thấy thấp thoáng đôi cánh trắng muốt tựa như cánh thiên nga ẩn hiện trong mây.
Lần đầu chứng kiến cảnh tượng này ai nấy đều sững sờ, dừng lại toàn bộ việc đang làm. Người lấy lại được tỉnh táo sớm nhất là Công chúa, nàng cố nén kích động giục giã:
Mau bắt đi!
Kẻ kia cũng chợt bừng tỉnh, nhìn lại một lượt rồi lắp bắp:
Chưa được. Vẫn ở trên cao quá. – Đoạn, hắn hô to nhắc nhở nhóm hát múa ở trong hố vàng – Khóc đi, cười đi, diễn lâm li bi đát vào thì mới khêu được tò mò của nó!
Tiếng nhạc cùng tiếng khóc cười lần nữa lại được tấu lên. Trong đám mây ngũ sắc như được dệt bằng những hạt ngọc trai kéo sợi, ló ra một khuôn mặt khả ái. Da trắng, môi đỏ, má bồ quân và đôi mắt màu thiên thanh trong veo như ngày trời nắng hạn. Thiên thần như trẻ nhỏ trong nhà quần nghịch đám chăn gối, cứ một chốc ló ra, rồi lại lặn sâu vào mây.
VII
Hai canh giờ trôi qua, đám con hát và pháp sư khóc cười nhảy múa đến mệt rũ mà chỉ có thể nhìn thấy đôi cánh và thi thoảng là nửa thân trên của thiên thần ẩn hiện trong mây. Qua hai canh giờ, khoảng cách giữa họ và thiên thần vẫn là mặt đất và bầu trời. Điều này khiến cho không ít người thoái lòng.
Lúc này mặt trời dần đứng bóng, nắng ban trưa thiêu cạn chút hứng khởi đầu ngày. Tiếng đàn hát sênh ca càng lúc càng rệu rã. Công chúa đã vào nghỉ trong lều tạm, đoạn truyền người đem danh sách nhân khẩu ba họ kẻ kia đến. Tên quan huyện đứng trực sẵn từ sáng, vừa nghe lệnh truyền liền vội vàng tiến lên dâng quyển hộ tịch. Nhìn cái dáng vội vàng xun xoe của tên quan, một kẻ trong họ lầm bầm:
Vội thế? Chậm một khắc thì lão sẽ nhập tịch với ta chắc?
Nhìn tỳ nữ bên công chúa tay cầm quyển hộ tịch, miệng sai khiển người đi điểm danh, những kẻ khốn khổ biết tên mình nằm trong danh sách càng sốt ruột. Họ hận không thể kiếm cái thang để trèo lên tóm ngay cái đứa lơ lửng trên cao kia xuống.
Mà quả là có một nhóm đã tỏa ra chặt tre làm thang thật. Những vị sâu sắc hơn thì phản ứng cũng chừng mực hơn (ở một mức nào đó). Họ túm lại họp bàn và đi đến thống nhất rằng có lẽ mấy thứ họ bày ra đây vẫn chưa đủ làm thiên thần thấy tò mò muốn xuống trần. Nhưng giờ đây lấy gì ra để dụ thiên thần? Không ai biết rốt cục thiên thần cần gì mong gì ở cái chốn phàm trần này. Sau một hồi mặt ủ mày chau, lại một kẻ nào đó trong họ đưa ý kiến:
Cứ thế này mãi cả ngày không được. Phải có cái gì đó khiến nó muốn thử chứ? Mật ngọt chết ruồi phải không? – Người nọ dừng một chốc như thể tự vấn xem bản thân mình sẽ bị dễ chết bởi cái gì, rồi quay lại quát mấy đứa hầu ở bên – Đem hết rượu thịt bánh trái hoa quả đặc sản khắp miền bày ra đây. Kiếm mấy thứ ngon mà thơm lừng lên ấy.
Lại một ông ở bên vừa lau mồ hôi vừa gật đầu phụ họa:
Nó không ăn thì chúng mình ăn các ông các bà ạ. Cũng đến giờ trưa rồi, ta vất vả ngược xuôi bao ngày, cứ bày ra mà đánh chén cho nó nhìn thèm. Cũng chẳng biết là có bắt được nó hay không, nhưng mình cứ phải ăn no đi cái đã. Nói dại mà việc không thành, cả ba họ nhà mình chết hết thì cũng chả còn đứa nào cúng cho nữa đâu. Cứ lo lắng thế này rồi cả lũ mình lại thành ma đói mất.
Đúng đúng, còn đang được tự do muốn gì ăn nấy thì tranh thủ ăn đi các ông các bà ạ.
Một lời nói ra tất cả người nơi đó như đi đêm được đuốc, đồng loạt khen phải, đoạn cấp tập sai khiến người nhà gom hết cao lương mỹ vị đến.
Vì thế, khi Công chúa từ lều đi ra, nàng được chứng kiến cảnh tượng ăn uống linh đình, rượu tràn bát, thịt đầy mâm. Không đợi nàng lên tiếng hỏi, kẻ dâng thuốc kia đã nhanh miệng tỏ bày:
Bẩm Công chúa, đây là một phần trong kế hoạch dụ thiên thần xuống trần đấy ạ. Thiên thần vốn không cần ăn uống, nên cũng không hiểu thế nào là mỹ vị nhân gian. Nếu sự tò mò về buồn vui nhân thế có thể dụ nó đến đây rồi, thì những hương thơm xa lạ này chắc chắn sẽ làm nó muốn nếm trải trần thế. Vậy nên…
Vậy nên các ngươi làm trước tiệc giỗ cho cả họ?
Công chúa lạnh lùng nhìn thẳng vào kẻ đang ba hoa kia. Hắn im bặt, rụt cổ cúi mặt xuống, bị nhìn chằm chằm như thế, những lời bao biện đã soạn sẵn đều bị cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng quét sạch. Hắn ngẩng đầu lên, vốn định thay mặt người trong họ thoái thác ít nhiều, thế nhưng thứ trước mắt khiến hắn chỉ có thể bật ra khỏi miệng mấy từ:
Ối giời!
Công chúa theo hướng mắt hắn nhìn về sau, thân hình nàng cũng căng cứng ngay sau đó.
Thiên thần hạ phàm.
Kẻ kia có nằm mơ cũng không ngờ mấy lời huyên thiên của mình lại có thể thành sự thật. Và “sự thật” đấy đang đặt chân lên nền vàng, ghé đầu vào một mâm cỗ, nhìn chằm chằm vào con gà luộc giữa mâm. Những người quanh mâm thoạt nhiên là sững sờ, sau đó nương theo ánh mắt của thiên thần, họ nhìn con gà, rồi họ lại nhìn thiếu niên có đôi cánh trắng bên cạnh cố đoán xem cậu đang tìm kiếm điều gì ở con gà luộc này.
Một ông táo gan khẽ khàng vặn cái đùi gà đưa lại gần vị khách mới. Có vẻ như thiên thần không thích ăn đùi gà, mắt nó vẫn dán chặt vào con gà giữa mâm. Một ông khác nhìn thiên thần, rồi nhìn con gà rồi à một tiếng ra chiều vỡ lẽ, ông nhanh tay bẻ một bên cánh gà hướng về phía thiên thần, đoạn còn cười nói ha hả:
Nhất phao câu, nhì đầu cánh, phao câu tôi lỡ ăn rồi, còn miếng cánh cậu tạm thử xem.
Đang lúc ngàn cân treo sợi tóc, ai cũng vô thức thở khẽ thậm chí nín thở, giọng nói tiếng cười sang sảng của người kia khiến người trong mâm và cả những người đang quan sát đều giật mình lo lắng nhìn chằm chằm phản ứng của thiên thần. Một số còn quay ra thì thầm:
Thằng cha đấy từ sáng đến giờ nốc bao nhiêu rượu rồi?
Không biết. Lão nát rượu xưa nay, giờ có khi lão chưa nhận ra đứa lão đang mời ăn là thiên thần đâu.
Thiên thần nhìn cái cánh trên tay người đối diện. Trên miếng da gà vàng óng đôi chỗ còn vương lấm tấm lông măng, có lẽ người làm lông gà hôm nay có quá nhiều việc phải quán xuyến, chút sơ suất này có thể thông cảm được. Tuy vậy, không thể chối cãi sự thật rằng con gà trống thiến này được luộc rất khéo. Gà được canh lửa cẩn thận để da không bị nứt. Miếng thịt gà chín đủ độ, mọng nước, nước luộc gà quyện cùng mỡ vàng chảy dọc theo cánh tay người cầm, đôi giọt như không chịu được sức nặng của mỡ nên buông mình rơi xuống nền đất dát vàng.
Thiên thần nhìn miếng da gà vàng ươm, bọc lấy thịt trắng, thịt trắng bọc lấy xương trước mặt, khẽ rùng mình. Nó cau mày lùi lại, hoảng hốt đưa tay ôm chặt đôi cánh sau lưng. Chạm vào đôi cánh, có lẽ khiến thiên thần nhớ ra mình có phương tiện để rời khỏi nơi này, liền sau đó, nó giang rộng cánh lấy đà chực bay.
Ngay thời điểm đó, như một vị tướng dạn dày chiến trận, kẻ dâng thuốc lúc này đã trực sẵn ở gần đó, quyết đoán, kéo mạnh một sợi dây, đoạn hô to:
Giữ lưới!
Từ trên cao rơi xuống một cái lưới. Cái lưới này được bện bằng sợi vàng, bạc, đồng đen, trên mắt lưới cài đủ mã não, hồng ngọc, xà cừ, san hô, hổ phách, rơi xuống trúng chỗ thiên thần đang đứng, những kẻ trong hố vàng nhanh chóng tản ra mép lưới hoặc leo lên thành hố, không cần ai phân bổ, người đóng cọc giữ mép lưới, người giằng dây, mỗi người một việc quyết tâm giữ thật chắc thiên thần – giữ thật chắc mạng của chính mình và thân thích.
Chỉ một cái chớp mắt qua đi, thiên thần nhận ra mình đã mắc bẫy. Nó mở miệng hét lớn nhưng người nghe lại thấy như lời ấm ức nỉ non của một thiếu nữ đang hờn dỗi người tình sai hẹn. Những người đang giữ lưới nghe thấy tiếng này thì chân tay khẽ mềm, lưới như lỏng hơn, thiên thần nhân đó giương cao đôi cánh, cố vùng thoát khỏi lưới. Nếu không phải trước đó mép lưới đã được gia cố bởi một số cọc sắt thì có lẽ thiên thần đã thành công. Phe người phàm rất nhanh chóng lấy lại được tinh thần, nghiến răng ghìm giữ lưới, họ hiểu trong lưới này không phải chỉ là một thiếu niên có cánh ngỗng trắng mà là sinh mạng của mấy trăm con người.
Nếu gạt bỏ đi những ngổn ngang sinh tồn, có thể nói những thứ đang diễn ra trước mắt Công chúa quả là một khung cảnh đẹp. Đôi cánh thiên thần trắng muốt xòe rộng cố vẫy vùng khiến cho đám lông mắc sâu vào trong lưới. Những thứ vàng bạc châu báu trên lưới luồn sâu vào cánh thiên thần, theo lực vẫy vùng mà nhổ bật lên từng đám lông vũ. Giả như thiên thần thỏa hiệp, có lẽ, đôi cánh của nó sẽ có thêm một bộ trang sức lộng lẫy.
Nhưng thiên thần chẳng chịu nằm im trong lưới. Nó dùng hết sức bình sinh cốt để giật đứt thứ cản trở nó trở về bầu trời. Có lẽ thiên thần biết, nếu nó không cố vùng vẫy ra khỏi hố vàng này, đời nó sẽ mãi mãi không còn được chạm vào bầu trời kia nữa. Đôi cánh trên lưng nếu không cố đập mạnh lúc này, thì quãng thời gian sau, có lẽ nó sẽ chẳng thể gặp lại niềm vui bay lượn trên bầu trời. Nếu nó buông xuôi lúc này, tức là nó đã sẵn sàng từ biệt niềm hân hoan của một ngày nắng đẹp có gió lộng nâng dưới cánh, và cảm giác gió chải dọc từng sợi lông vũ, gió mơn man thịt da sẽ chỉ còn đọng trong nỗi nhớ về sau.
Chỉ mới một khắc quần thảo, đôi cánh trắng muốt mềm như tơ đã xơ xác, một vài chỗ loang lổ và bết lại bởi máu.
Thiên thần không ngờ rằng, khi ở dưới hố ngước lên, khi bị chia cắt bởi một tấm lưới, nó mới nhìn rõ một bầu trời xanh trong đến thế, rực rỡ đến thế, và, trong cơn hoảng loạn, thiên thần còn cảm thấy bầu không khí ở trên cao kia nhẹ nhõm hơn nơi này nhiều lắm. Là do không khí ở mặt đất này? Hay do thứ hương kỳ lạ khiến nó nảy sinh tò mò?
Thiên thần lại hét lên một tiếng thê lương, lần này nó xoay người, tay cầm lấy tấm lưới cố gắng giằng đứt thứ xiềng xích độc ác này. Tay chân nó bị những món xà cừ mã não kia cứa cho bê bết máu, có những vết cắt sâu đến mức nhìn thấy gân xương, nhưng thiên thần mặc kệ, nó như phát rồ mà tấn công tấm lưới mặc cho máu đã nhuộm đỏ khắp thân thể.
Hóa ra máu thiên thần cũng là màu đỏ à? – Công chúa khẽ lẩm bẩm tự hỏi rồi bật cười như thể đang chứng kiến điều gì khôi hài lắm – Các ngươi sẽ ghì nó như thế này đến lúc nào? Ta không có cả ngày để xem giăng lưới bắt chim đâu.
Kẻ kia sau khi bàn giao lại nhiệm vụ giữ lưới cho người khác đã quay trở lại bên Công chúa, thấy nàng hỏi, hắn cúi đầu đáp:
Bẩm Công chúa, chúng con đang chuẩn bị tên tẩm độc để bắn nó. Nói là tên tẩm độc nhưng loại độc này có tên là “Tam độc” (2) không hề có ảnh hưởng gì đến con người mà chỉ ảnh hưởng đến tiên nhân, thiên thần thôi nên người đừng lo lắng ạ.
Công chúa khẽ cau mày. Dường như việc bị tách sang nhóm khác với thứ cao quý như thiên thần, tiên nhân làm nàng phật ý. Nàng gắt:
Không được dùng thứ độc đó. Ai mà biết được nó có thật sự không ảnh hưởng gì đến ta.
Kẻ kia nhìn đám họ hàng nhà mình đang gồng sức giữ lưới. Lại thêm một nhóm bị kéo lê theo sức giãy giụa của thiên thần, một nhóm khác đang cố đóng lại cái cọc sắt vừa bị nhổ tung ra. Trong lưới thiên thần đổ máu, bên ngoài lưới máu cũng đã ướt tràn. Hắn quệt mồ hôi, thấp giọng nài nỉ Công chúa:
Nhưng nếu không dùng độc thì sức người không thể kiềm giữ được thiên thần đâu ạ.
Công chúa lặng im, kẻ kia cảm tưởng một khắc im lặng này giống như khoảng lặng trước một cơn bão lớn. Dự cảm của hắn biến thành sự thật khi Công chúa cất tiếng ban truyền:
Ta thấy nãy giờ nó xoay trở vẫn cố tránh không va chạm gì đến con người… Mau, đem ném hết mấy đứa trẻ con vào trong hố đi. Bọn trẻ sẽ làm nó không dám giằng giẫy nhiều. Người đâu, cho năm tên thị vệ luồn vào lưới rồi chặt cánh nó cho ta. Ta chỉ cần cánh, còn nó sống hay chết mặc kệ.
Tiếp đó là tiếng trẻ con khóc, phụ nữ kêu gào khắp bốn phương. Những đứa trẻ từ đứa mới biết bò cho đến đứa mới chập chững biết đi đều bị gom lại ném xuống hố. Mẹ chúng thấy con bị ném xuống thì xót xa cũng tìm cách luồn vào lưới hòng bảo vệ chúng. Thiên thần đang cố giằng thoát, đột nhiên thấy trong hố xuất hiện thêm nhiều sinh vật khóc lóc như vậy hơi sững lại. Nó loay hoay cố tránh để đôi cánh của nó không va quệt vào mấy sinh vật thoạt trông có vẻ dễ vỡ kia.
Lệnh cho mấy mụ đàn bà kia, nếu muốn con các mụ sống thì lao đến giữ chặt chân tay thiên thần để lính của ta chặt cánh nó.
Lạy Công chúa, người thương cho chúng con với… Toàn là ngữ chân yếu tay mềm… Chúng nó vào đấy thì thiên thần quẫy hai cái là chết sạch mất thôi…
Công chúa như một tay chơi cờ lão luyện, nhẹ nhàng xếp đặt mạng người chằn chặn ngăn nắp hệt như đang thả xuống những quân cờ vô tri. Nàng nhìn kẻ đang quỳ mọp dưới đấy dập đầu van xin mà lòng chẳng mảy may nảy ra được một tia thương xót. Quỳ lạy thôi mà, ngày nào chẳng có người quỳ khóc cửa cung nàng, nào có hiếm lạ gì.
Ai kháng lệnh, giết luôn cho ta.
Cả không gian căng đầy tiếng khóc. Cả người dưới miệng hố lẫn người trên miệng hố lúc này đều cắn răng cố làm cho tốt việc của mình. Loáng thoáng có tiếng nài xin:
Xin ngài thương cho, chúng tôi phạm đến ngài thế này cũng là bị ép mà thôi… Xin ngài thương cho…
Thiên thần mở to mắt nhìn quang cảnh trước mắt, rồi nhìn kỹ hơn những sinh vật đang lao đến ôm lấy chân tay mình. Trên khuôn mặt họ là thứ chất lỏng nó chưa từng thấy trong đời, thứ chất lỏng có mùi từa tựa như mùi đã rù quyến nó tới nơi này, nó đưa tay lên má của sinh vật gần nhất, quyệt nhẹ rồi đưa vào miệng nếm thử, hương vị thật lạ lẫm. Trước khi nó kịp diễn giải vị lạ lẫm đó thì sau lưng nó bất ngờ truyền đến một cơn đau đớn khủng khiếp, thiên thần quay đầu lại tình cờ đón trọn tia máu từ cánh mình bắn thẳng vào mặt. Trước mắt nó là một màu đỏ máu.
VIII
Ở một phiên chợ làng, bên những hàng cá tôm, rau bầu quen thuộc, sạp nước chè hôm nay chừng như đông khách nhất chợ. Người ta kháo nhau có đoàn buôn đánh hàng từ Kinh thành ghé qua, đường dài trắc trở có lắm chuyện li kì, dường như nửa chợ đã bỏ buôn bán để vào nghe kể chuyện.
Nếu theo đúng như những gì ông kể, thì vị mới được phong Dược Hầu đã chữa cho Công chúa khỏi bệnh nhờ dâng cánh thiên thần làm thuốc ư?
Đúng thế, cái trận pháp vây bắt thiên thần đấy đoàn tôi từng đi qua… Các ông khi nào có dịp thì ghé qua mà xem, thỉnh thoảng vẫn có người nhặt được vàng bạc, châu báu ở khu đấy đó.
Nhưng mà, vị kia được phong Dược hầu thì đất phong là vùng nào nhỉ? Cứ như lệ thường thì đất phong sẽ gắn cùng với tước…
Thì đó, thế mới là cay đắng đấy các ông ạ. Bỏ ra bao công của mà cuối cùng nhận về cái chức rỗng không.
Một trận lao xao vang lên. Cũng bởi nơi này là vùng thôn dã cách Kinh thành ngàn dặm nên dân cư cũng táo gan mạnh miệng hơn hẳn vùng khác. Những lời phàn nàn, chê trách hoàng thất cứ thuận lòng người mà tuôn ra bằng sạch.
Hết một tuần trà, nỗi bức xúc cho vị Dược Hầu xấu số kia đã dịu xuống. Như thế âu cũng là vừa đủ cho một mối quan tâm tới người dưng xa lạ. Lại có người cất tiếng hỏi khách buôn:
Thế thiên thần bị chặt mất cánh rồi thì ra sao?
Đoạn này thì tôi thấy mỗi người kể một kiểu, người thì bảo thiên thần mất cánh xong thì hóa thành đứa thiếu niên, đi lang thang lẫn vào con người. Lại có người bảo thiên thần sau khi bị chặt mất cánh thì hóa thành bụi vàng hòa vào gió chu du khắp cõi. Còn có người nói thiên thần bị chặt cánh thì chết rồi hóa thành oán linh ám công chúa, ngày ngày đi theo đòi lại đôi cánh để có thể về trời.
Có phải vì thế mà Công chúa sợ nên mới đồng ý đi hòa thân tận trên mạn ngược hay không?
Ông đừng có suy diễn vớ vẩn. Công chúa đi lấy chồng rợ là do nhà Vua sắp xếp để làm yên bờ cõi.
Nhưng mà tôi tưởng nhà Vua thương cô Công chúa này nhất?
Thương thì làm được gì? Giờ Công chúa khỏe mạnh rồi thì vẫn phải có trách nhiệm với xã tắc như bao người hoàng thất mà thôi. Tôi nghe nói lúc Công chúa lên đường về nhà chồng, nhà Vua cũng xót con quá độ mà ốm một trận đấy.
Chậc chậc… Đến như nhà Vua hay Công chúa có tiền có quyền tột bậc thế mà cũng có lúc chẳng được tự do theo ý mình thì phận con sâu cái kiến như chúng mình lại càng lắm lúc thân bất do kỷ. Nghĩ cũng nản lòng, các ông các bà nhỉ?
…
Có một ông trông kiểu cách ra dáng người có học, khẽ ngâm:
Mồi phú quí nhử làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam-Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. (3)
Đoạn, ông văn sĩ chẹp miệng:
Các ông còn muốn thì chẳng bao giờ có cái tự do các ông mong đâu.
Tiếp đó là tiếng nhao nhao phản đối:
Ông lão này nói gàn. Ta đây chẳng ai trói ai ép mà ông dám nói không có tự do?
Đáp lại mấy lời ầm ỹ, ông lão kia chỉ cười khà khà cúi đầu thong thả uống trà, chẳng bàn thêm điều gì nữa. Còn đoàn khách buôn, chừng như đã nghỉ ngơi đủ, họ bắt đầu lục tục thu dọn để tiếp tục lên đường, loáng thoáng có tiếng người hô gọi:
Con bé Kẹt đâu rồi? Mày ra đây phụ bê đồ nhanh!
Dạ!
Theo tiếng đáp tiếng đáp lanh lảnh, một con bé chạy ào tới, nhanh nhẹn đỡ những đồ thổ sản đoàn buôn vừa thu mua gom lên xe lừa, vừa làm vừa ngân nga hát.
Ông chủ đoàn buôn trả tiền nước xong rồi gật đầu chào:
Các ông bà ở lại mạnh giỏi nhé, chúng tôi lại lên đường đây.
Dân làng vui vẻ đáp lời:
Các ông đi thuận lợi, buôn may bán đắt nhé.
-
Chú thích:
Tác giả muốn nhắc đến Bát khổ trong Phật giáo: sinh lão bệnh tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm thạnh khổ.
Tam độc theo quan điểm Phật giáo gồm: tham, sân, si.
Trích Cung oán ngâm khúc – Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
Bình luận
Chưa có bình luận