Đông Toronto


 

 

Truyện ngắn: Đông Toronto

Tác giả: Ẩn danh


Đã mấy lần tôi nhận ra trong phòng lab chẳng còn ai cả, nhưng tôi cứ nhớ nhớ quên quên vì vẫn đang dở tay thí nghiệm với rệp đậu. Kỳ lạ thật đấy. Căn phòng vốn chỉ có tiếng ù ù của hệ thống giữ nhiệt khi vắng đi những tiếng rì rào nhỏ nhẹ của mấy bạn nghiên cứu sinh, thế giới bỗng trở nên thật yên lặng và rất cô đơn. Nhưng có lẽ cuộc sống là như vậy hoặc chính tôi mới là kẻ dị loài. Đôi lúc tôi sẽ trốn tránh và ghét cay đắng cái thế giới ồn ào này với những lẽ thường của nó, những con người và cái sự đương nhiên của họ, thế nhưng vài lúc một mình, một sự chán chường nảy nở trong cái nỗi niềm cô đơn của kẻ xa xứ cứ làm tôi nhớ nhung biết bao sự xáo động của phố thị. Ánh đèn vẫn sáng trong phòng lab và dường như là cả đêm, thế nên tôi chẳng biết bên ngoài đang là đêm hay ngày. Và có lẽ cuộc đời cứ thế trong 4 bức tường trắng, ngập đầu trong những thí nghiệm lặp đi lặp lại từ đêm này qua đêm kia. Nhưng dần dần tôi cũng quen với chuỗi ngày ngoằng ngoẵng như thế và thầm mong sao chẳng bao giờ có ngày kết thúc mà vẫn là một con đường kéo dài mênh mang tiếp. Có chăng con người chẳng bao giờ mong chờ sự đổi khác và có lẽ sẽ tốt hơn nếu mọi sự trên đời cứ diễn ra như nó đã từng và nên từng. Song đến một lúc nào đó họ sẽ bần thần nhận ra rằng cái sự đương nhiên ấy đã đổi thay tự bao giờ. Nó cứ biến đổi từng chút, từng chút, lặng lẽ chuyển mình dưới mí mắt nhắm tịt của những con người mải mê đi theo sự biến chuyển của đời và đến thật lâu sau này nó mới đột ngột hiển hiện và chợt ta cảm thấy tiếc nuối khôn cùng cho những điều ta đã chẳng kịp làm và chẳng thể nhớ nữa. 

Tôi liếc nhìn đồng hồ treo đối diện phòng của giáo sư Frank. Đã 18 giờ, chưa hết ngày nhưng đêm vẫn chưa kịp đến, đó là điểm giao thoa giữa bóng tối và ánh dương, là ranh giới mong manh giữa đêm đen và ngày tàn. Tôi chợt nhớ những buổi chiều ở Việt Nam. Trời cao và sâu như mặt biển trước bão, và khi ngày dần lụi tàn, nó để lại những vệt cháy đỏ rực vắt ngang trên gởn mây xám đục. Nhưng chiều tàn Toronto lại hơi khác, hoặc có lẽ là do tâm trạng con người nên cảnh vật chẳng bao giờ giống nhau. 

 Mới nhá nhem tối mà bên kia thành phố đã sáng đèn. Trường tôi cách thành phố một quãng sông và một khu đất phủ tuyết trắng. Một màn tuyết rợn ngợp, trải rộng trước mắt như biển cả lặng sóng và nếu nhìn thoáng qua thì chẳng phân biệt được đâu là tuyết và đâu là bờ sông. Vốn đã ổn định được hơn 1 năm rồi nhưng tôi vẫn chưa biết gọi con sông ấy là gì. Tôi chỉ biết nó luôn lặng lẽ chảy qua thành phố, róc rách trong tiếng jazz êm đềm phát ra từ quán Balzac’s và ngấm màu vào trong tuyết sau những trận bão phủ trắng vườn đất sau trường. Toronto những ngày như vậy trông bợt bạt như người ốm chứ chẳng hề nên thơ như những gì sách kể. Thế nhưng khi chiều tàn, ánh tà rủ bóng và phủ một cái màu nâu đỏ như nắng cháy trên nền tuyết làm tôi giật mình ngờ ngợ như thấy máu loang lổ trên sông. Thủ đô khoác lên vẻ yên bình và rực rỡ tới lạ, nhưng nó không khiến tôi say mê mà càng làm tôi nhớ những chiều ở Việt Nam hơn. Nỗi nhớ cứ da diết, kéo dài theo ánh chiều tà chiếu ngang trên khung cửa sổ và đọng lại trong mắt tôi. 

Nhưng tôi chợt nhận ra, tôi đã chẳng còn gì để nhung nhớ nữa. Có lẽ tôi chỉ tiếc thương sao cho những ngày đã qua, những ngày mà tôi đã bỏ phí và có lẽ là cả cuộc đời trước đó mà tôi đã chẳng thể làm gì cả. Cái nỗi niềm buồn rầu cứ rộn ràng trong tôi như hối thúc tôi trở về chốn cũ. Nhưng trở về có nghĩa lý gì khi vật chẳng còn, người cũng đổi khác, tất cả những điều trinh nguyên và đẹp đẽ nhất đều chỉ còn trong một quá khứ xa xăm. Vì sao thế gian cứ biến chuyển mà ký ức chẳng đổi thay. Những tầng tầng lớp lớp ghi đè lên nhau nhưng chẳng thể đè lên nỗi nhớ. Nó da diết và đượm buồn, nằm thật sâu trong tim của một con người quá khứ. Có lẽ nó chỉ là một nỗi ám ảnh về những mùa hè tuổi thơ mà tôi đang dần quên mất, hoặc một sự nuối tiếc dông dài cho những quãng thời gian mà tôi đã lỡ là, hoặc đơn giản nó chỉ là con người tôi mà thôi với một nỗi buồn vô tận về những ngày đã qua, về những người đã chẳng còn và về một tôi cũng đã chẳng thể giữ lấy. 

Cửa phòng lab bỗng mở ra và Dương đứng đó, tà dương chảy trên khuôn mặt anh và nhuộm lên đáy mắt một vẻ thật u sầu. 

“Em chưa về à” anh nói. 

“Không, chắc hôm nay em vẫn ở lại thôi.” 

  Anh thở dài và tiến lại gần hơn. Bóng anh đổ dài trên ánh chiều tàn rực rỡ. Anh dừng ngay trước mặt tôi và gần như tôi đã cảm nhận được tiếng tim anh đập não nề. Mùi hóa chất ám vào từng lớp áo và xộc vào khoang miệng tôi, nhưng tôi không cảm thấy khó chịu, cũng giống như anh đã từng rất lâu về trước. 

Anh dang rộng vòng tay và ôm tôi cùng với nắng. Anh gom cả nắng tàn vào trong đó, vào trong tôi và vào trong buổi chiều ngày hôm ấy. 

“Được rồi” Anh siết chặt vòng tay “Anh chờ em về” 

Anh đã nói rằng anh chờ tôi về, cũng như rất lâu trước đó. Tôi đã tin vào điều ấy và có lẽ tôi vẫn rất muốn tin. Nhưng chiều tà đổ bóng lên khuôn mặt anh và ánh sáng trong đáy mắt anh bỗng sáng lên hừng hực như nắng hè năm đó. Và chợt tôi nhận ra, chiều tà không đợi tôi và nắng hè cũng thế, ngày sẽ trôi đi và để lại trên triền mắt những vệt thời gian cũ. Chỉ có con người sẽ tin rằng thời gian là vĩnh cửu. Tôi đẩy anh ra.

“Anh về đi” Tôi không thể nhìn vào mắt anh nữa. Chống tay lên ngực anh, trái tim anh phập phồng mệt mỏi và mùi hóa chất phảng phất trên cánh mũi. “Đừng chờ, ngoài trời đang lạnh.”

Nhưng anh không buông tôi ra, anh đứng yên tựa như thời gian bỗng ngưng đọng. Tiếng máy lọc không khí vẫn kêu ù ù và những con ong thầy nuôi bắt đầu rí réo bay và đập mình vào lớp kính. Anh thở dài và khẽ cọ cằm lên đỉnh đầu tôi. 

“Anh không muốn đâu”

“Em đừng làm thế” 

Chiều tà Toronto đổ bóng lên chúng tôi và gần như mọi thứ trông, haha, như phim ngôn tình. Có lẽ tôi đã hình tượng hóa tất cả và cũng đã cố chấp với những điều tôi nghĩ. Và anh bảo tôi con người không thể sống như những gì Ayn Rand quan niệm. Con người thay đổi và đó cũng chưa hẳn là điều quá tệ nếu chúng ta chẳng thể sống như giấc mơ thuở bé. Dương bảo tôi như thế, như những gì anh đã làm.

Thế nhưng nó luôn khiến tôi buồn và tiếc nuối biết bao. Có một mùa hè nào đó, tôi và anh đã từng đứng bên kia bờ sông và nhìn ngắm thành phố phủ bóng xuống mặt nước. Nước lặng tờ, sóng êm êm, gió ru lá rơi nhẹ nhàng xuống tĩnh lặng, thời gian tỏa bóng lên mùa hè năm đó và lên khuôn mặt niên thiếu giờ đã họa nét gian truân. Nhưng đôi lúc đời cũng như chiếc lá, lênh đênh chẳng biết đường nào. Có lẽ vì lênh đênh nên tự tại biết bao nhưng vì tự tại nên thật lạc lõng, thật cô đơn, khổ sở và đau lòng biết mấy cho một kiếp người sẽ sớm tàn lụi trong sự nuối tiếc dông dài. Giá như tôi đã chẳng sống với quá nhiều nuối tiếc về quá khứ và giá như tôi hướng đến cái sự tự do mông lung đó của tương lai. Có phải tôi sẽ vui vẻ hơn không? Thật khó trả lời. 

*

Cứ vào đông thì ngày ở Toronto lại ảm đạm và lay lắt, kể ra cũng phần nào làm con người suy nghĩ và buồn bực nhiều. Nhưng có lẽ phần lớn thì con người không buồn vì cảnh mà cảnh mới buồn theo người, còn con người thì chỉ buồn vì người khác hoặc bản thân họ mà thôi. 

Hôm qua khi tôi đang mải theo dõi lứa ong ký sinh đợt này thì bỗng giáo sư Frank tiến tới vỗ vai và hỏi tôi: "Theo em bản chất của việc nghiên cứu về các loại chất xúc tác để kích thích ong ký sinh là gì?" 

Tôi khá bất ngờ vì bình thường thầy có vẻ không ưa tôi cho lắm. Tôi đoán rằng có thể do tôi luôn fail thí nghiệm mà thầy bàn giao lại từ người trước cho tôi. 

Tôi vẫn nhớ như in buổi sáng đầu tiên khi chị Ayahi - một PhD trẻ người Ấn với khuôn mặt phúc hậu và nụ cười thân thiện - vừa bay về nước, giáo sư đã gọi tôi lại lúc 5.05 chiều và bảo tôi: "Từ giờ em sẽ nhận chăm sóc và nuôi lứa ong ký sinh của Ayahi. Ngày mai tôi sẽ đưa cho em một số hướng dẫn căn bản về cách chăm sóc sau. Em về đi”. Tôi chẳng biết gì về ong ký sinh, nói trắng ra thì tôi chuyên về Acyrthosiphon pisum - một loại rệp đậu và là thức ăn của ong ký sinh. Có lẽ thầy nhìn ra sự giao liên kỳ lạ nào đó giữa tôi và chị Ayahi, hoặc có lẽ thầy cứ tưởng cấu trúc não bộ của người châu Á chúng tôi được liên kết chặt chẽ với nhau theo một phương thức tinh thần đặc biệt nào đó giúp cho chúng tôi thoải mái chia sẻ tri thức không rào cản. Đúng là chúng tôi giao nhau nhưng là theo cái kiểu giống như hai đường thẳng song song bỗng nhiên được thầy kẻ thêm một nét cắt vuông góc vào giữa ấy. 

Tôi bảo thầy: "Em chẳng biết gì về ong ký sinh cả, em làm về rệp đậu". Và thế là thầy hét thẳng vào mặt tôi. "Tôi bảo em làm về ong ký sinh chứ không phải nhờ em làm!".  

Chắc chính từ lúc ấy, thầy bắt đầu ghét cay ghét đắng bản mặt trâng tráo của tôi, cộng thêm cách làm việc cẩu thả và sự chây lười của tôi cũng góp phần không nhỏ giúp thầy càng thêm ngứa mắt với người Việt Nam. 

Tôi thừa nhận bản thân thuộc tuýp người cẩu thả và cầu tiến, đó là cái kiểu người chỉ làm việc khi họ thích, chỉ chịu trách nhiệm nếu họ muốn, trải qua mỗi ngày một cách bừa bộn và chẳng có chút sắp xếp nào cả. Thế nhưng một điều đáng cười đó chính là họ luôn đặt cho bản thân một mục tiêu to lớn nào đó hoặc cố ép bản thân phải phá vỡ một giới hạn khó nhằn, và trong khi suốt quá trình tất cả những gì họ làm chỉ là đặt mục tiêu hay ngồi phè phỡn thì khi tới hạn họ lại bắt đầu than vãn rằng họ quá bận rộn để làm thêm bất cứ điều gì. Thế nhưng những kiểu người thế này, theo tôi, lại chia thành hai loại chính. Một là những người xuất chúng, lấy cảm hứng từ cuộc sống lộn xộn. Tất nhiên đi kèm với sự than phiền của họ là những thành tựu đáng ngưỡng mộ. Hai là những người không xuất chúng, lấy cảm hứng từ cuộc sống bừa bộn. Tất nhiên đi kèm với sự than phiền của họ là hai đêm thức trắng trước khi phải nộp lại báo cáo cho thầy và một đống bình luận không thể tệ hơn từ giáo sư. May mắn thay, tôi chính là loại người thứ hai và chưa bị trầm cảm bởi lối sống này. 

Giáo sư hỏi lại tôi với một tông giọng bằng bằng, đấy là dấu hiệu của việc thầy bắt đầu cảm thấy bản thân đang làm một chuyện vô nghĩa: "Theo em bản chất của việc ấy là gì? Em hiểu Tiếng Anh chứ?” 

Tất nhiên là có mục đích rồi, thế nên thầy mới hỏi. Thầy thực sự thích sỉ nhục tôi bằng lối hỏi càn rỡ như vậy, nhưng tất nhiên tôi hoàn toàn vui vẻ chấp nhận sự khinh bỉ của thầy vì thực chất tôi cũng chẳng biết nên giải thích thế nào với thầy. Thà rằng thầy mail cho tôi một lá thư dài ngoằng để bày tỏ sự thất vọng và khó chịu của thầy với tôi còn hơn là thân tình vỗ vai tôi rồi hạ nhục tôi nửa công khai như thế. Nhưng có lẽ các giáo sư luôn tìm thấy một thứ niềm vui vặn vẹo khi ngắm nhìn những khuôn mặt ngây ngô của đám trợ lý chúng tôi nhăn lại trong sự sợ hãi. 

"Ong ký sinh là một côn trùng có tại vùng Đông Nam Việt Nam và phù hợp để đuổi các loài ký sinh trong thời gian từ tháng 5-8, lúc vào vụ mùa thu hoạch lúa. Các chất kích thích ong giúp hiểu thêm về cách thức hoạt động và tận dụng nó trong tự nhiên Việt Nam, tránh những kích thích gây hại cho ong hay ảnh hưởng tới hiệu quả của phương pháp thiên địch. Theo em thì là thế".

Giáo sư khẽ lắc đầu và nói: "Có vẻ em vẫn chưa hiểu. Thứ em vừa nói chỉ là những gì em nghĩ dựa vào vốn đọc của mình, có lẽ là cộng thêm với 17 lần fail thí nghiệm trong hơn một năm nay và một vài sự giúp đỡ từ bạn Dương ở phòng thí nghiệm bên. Tôi không nói rằng việc em fail hay thành công không cho em bài học, và cũng đừng hiểu lầm rằng tôi không coi trọng em. Thực chất vì tôi coi trọng em nên mới hỏi em điều này. Nhưng có vẻ em vẫn chưa hiểu được việc mình đang làm".

Giáo sư luôn có những cách nhận xét dịu dàng như thế, nó khiến tôi cảm tưởng rằng thầy cũng chẳng ghét bỏ tôi cho lắm. Thế nhưng mỗi lần nhìn vào gương mặt lạnh băng của thầy, tôi biết thừa chắc hẳn thầy chỉ thương cảm cho tôi nên mới nói thế mà thôi. Giáo sư sẽ coi trọng tất cả mọi người, ai cũng có thể, chứ không thể là tôi. 

"Thưa giáo sư, em không hiểu tại sao thầy hỏi em như thế và cũng không hiểu tại sao thầy bảo em tiếp tục thí nghiệm của chị Ayahi. Em chỉ biết về rệp đậu".

"Đúng vậy, vì em chỉ biết về rệp đậu và cũng chẳng biết gì về rệp đậu nên tôi yêu cầu em phải làm về ong ký sinh. Và em luôn làm thí nghiệm với tâm thế làm thay cho Ayahi thế nên em chẳng bao giờ thật sự quan sát những con ong cả. Và bởi vì em không nhìn những con ong nên có lẽ em cũng chẳng hiểu được về những con rệp mà em muốn nghiên cứu đâu".

"Tại sao em phải làm thế hả thầy? Em biết về loài ong này nhưng biết rõ về rệp đậu. Em có thể làm với một người rất biết về ong để giúp em. Em cảm thấy thật sự rất chán khi phải làm về một con mà em không biết và cũng không thích nổi".

Giáo sư quay mặt về phía phòng nuôi dưỡng, những con ong bay ra khỏi tổ và đập bóng vào mắt kính thầy. 

"Đó chính xác là vấn đề của em. Em làm về rệp nhưng em không thật sự thích, nếu em thật sự thích Acyrthosiphon pisum thì em đã biết về Macrocentrus philippinensis. Chúng là thiên địch phải không? Em biết điều đó nhưng em không biết rõ. Thế mà em bảo là em thích ư?" Thầy ngừng lại một lát và hắng giọng "Bản chất của việc xác định chất kích thích ong cũng giống như tìm kiếm bản chất của việc nghiên cứu mà thôi. Nếu như em thật sự để tâm thì chắc chắn em phải biết mọi điều về nó, tò mò mọi thứ về nó, em điên cuồng vì nó và tìm ra lẽ sống ở nó. Nhưng theo tôi thì em chẳng như thế, mà nói trắng ra thì em gần như vô cảm. Giá như em đặt tâm vào đó thì có lẽ em đã là một nhà nghiên cứu xuất sắc”.

Dường như tôi nghe thấy sự tiếc nuối trong giọng nói của thầy, hoặc có lẽ tôi chỉ đang ảo tưởng. Tôi mong đó là khả năng thứ hai. Tại sao thầy lại thấy tiếc cho tôi cơ chứ? Thầy làm tôi nhớ tới bố tôi. 

Nhiều năm trước, có phải là năm 2016 không? Nhìn thẳng vào mắt tôi, đôi mắt mờ đục của ông lóe lên một thứ ánh sáng kỳ lạ tưởng như nuốt chửng những gì phản nghịch nhất trong tôi, ông khẽ thở dài và với một giọng nói buồn rầu, mệt mỏi, ông nói với tôi, một cách quá đỗi nhẹ nhàng. 

“Con đừng nghiên cứu nữa, đừng nghiên cứu nếu như mục đích của con chỉ là vẽ tiếp con đường mà bố không thể theo đuổi được nữa. Con thấy đấy, tất cả dãy cây Rattans mà bố trồng sâu trong Lí Pẹ, tất cả những phương thức nông nghiệp mà bố từng thử trên đất đỏ trong bản Pùa, tất cả những gì bố đã từng làm đều không phải vì con, vì mẹ con hay em con. Con có thể tự hào mà ước mơ vì bố, lấy động lực từ bố, nhưng đừng gắn cuộc đời con với ước vọng của bố. Đừng ích kỷ, tẻ nhạt và lười biếng như thế”. 

Cả giáo sư và bố dường như đang tiếc nuối cho tôi, vì một điều gì đó, cho một thứ gì đó. Và có lẽ thứ luôn chờ một người trẻ ở độ tuổi này chính là một cuộc khủng hoảng nhân sinh chứ lại hiếm khi đã là một nhận thức triết học cao siêu nào đó. Chính thế nên cho dù tôi có hiểu hay không hiểu những gì họ nói thì tôi cũng chưa thể nào khác được. Đôi khi chỉ có trải nghiệm sự đau đớn khôn cùng mới giúp tôi ngộ ra nhiều điều, nhưng cũng phải là khi tôi đã không còn lành lặn được như trước nữa.

*

Mùa đông Toronto, tuyết rơi trắng trên mái nhà. Màu trắng nuốt chửng tất cả sắc màu, nó trải dài ra trước mắt như một biên niên sử dài tới vô tận, chạy dài, chạy dài về quá khứ. Đôi lúc tôi tự hỏi liệu tuyết có rợn ngợp đến như vậy. Tuyết cứ rơi hoài, rơi mãi, đọng thành từng nhũ băng lấp lánh trên khung cửa sổ. Tôi nhìn ra, dù trong hay ngoài cũng chỉ là tuyết trắng. Dường như mùa đông không đổi sắc, chỉ khoác lên mình một vẻ nhợt nhạt và trắng trong. Tuyết trắng lung linh, bay lênh đênh trong cơn gió lạnh chiều đông tựa như những xác sinh vật biển. Nó phủ lên thành phố ánh bàng bạc mênh mang và dường như Toronto đang chìm xuống một đáy biển diệu kỳ. Cảnh vật lơ mơ, huyền hoặc trong màu tuyết, ánh dương mờ ảo chiếu loang nhoang xuống nền trắng xa xăm. Tôi cũng như thế, chìm dần xuống đáy biển, để sóng cuốn tôi đi trong từng cơn bão tuyết đầu đông. Tuyết rơi trên tóc tôi và đậu trên mi mắt, nhẹ nhàng như hạt nắng đầu hạ, như gió thoảng, như tiếng lá rơi. Và dường như thế giới chẳng đổi màu, trong mắt chỉ còn màu tuyết. Giá như nó cứ mãi như một biên niên sử chẳng hồi kết. Giá như quá khứ cứ kéo dài miên man đến tận cùng.

Dương bước đến, tàn nắng chiếu lênh đênh trên nước da nhợt nhạt và đổ màu bệch bạc xuống bóng anh. Anh bỗng chạm vào đỉnh đầu tôi, một cái chạm cũng chỉ nhẹ như tuyết. Và anh nhìn tôi, một cái nhìn dịu dàng như nhìn một ngày đông. Màu tuyết loang lổ trong đôi mắt đen, phản chiếu cả tôi và ánh chiều tàn đỏ rực đằng xa chân trời và cứ tựa như anh đã thấy một chiều đông rực rỡ lắm.  

“Em đang nghĩ gì thế?” Anh hỏi tôi. 

Tôi đang nghĩ gì? Tôi đang nghĩ nếu tuyết cứ rơi chắc tôi sẽ chết trong mùa đông này mất. Tuyết cứ trắng tinh và rợn ngợp, trắng đến nghẹt thở. Cứ như nó nhấn chìm cả tôi và Toronto dưới đáy biển vậy. Nắng lướt thênh thang trên nền trời xanh thẳm mà tôi chẳng thể với tới. Tôi cứ chìm dần, chìm dần. Làn nước trong veo phản chiếu gương mặt tái nhợt và đôi mắt thâm đen, cứ như tôi vốn là kẻ đã chết. Và thế giới bỗng mất đi sắc độ, chẳng còn gì cả ngoại trừ những hình thù thô kệch trôi lênh đênh trong một dòng vô định. Tôi đã nghĩ lẽ ra tôi đã rời Việt Nam. Lẽ ra tôi nên cảm thấy vui vẻ? Dường như tôi đã rời đi nhưng chưa từng rời đi vậy. Cứ tựa như cả tôi, Toronto và Việt Nam đều chìm dần trong tuyết trắng, bợt bạt như kẻ chờ chết. Dường như chỉ có cảnh vật và con người là đổi khác nhưng tôi thì vẫn vậy, chỉ là cảm thấy lạc lõng hơn và cũng cô đơn hơn mà thôi. Đôi lúc tôi tự hỏi rốt cuộc thì tôi đã có được những gì sau hàng giờ thí nghiệm, sau hàng chục lứa ong ký sinh, sau hàng nhiều những ngày uể oải trên phòng lab. Rốt cuộc tôi đã có gì và mất điều gì. Có lẽ tôi cũng chẳng là bậc vĩ nhân gì cả, như những gì chúng tôi ước mong thuở nhỏ. Tất cả hóa ra cũng là những người bình thường, sống một cuộc đời bình thường và chết một cách bình thường chăng? Và có lúc Dương bảo tôi: “Vốn dĩ sự tầm thường và phi thường cũng chỉ cách nhau một khoảng rất nhỏ. Nhưng hiếm ai có thể vượt qua khoảng nhỏ ấy”.

Tôi đã hỏi anh rằng vì sao lại như thế. Anh cười và nói thế này: “Thật ra anh chẳng biết nữa. Chắc là vì không ai nhận ra rằng bản thân bình thường hoặc họ không chấp nhận được điều ấy. Hoặc do vốn dĩ sự phi thường đã chẳng thể định nghĩa được nên ai cũng coi bản thân và thế giới là bình thường. Đây nhé. Ví dụ như em cảm thấy bản thân thật tầm thường nhưng với anh thì em lại rất phi thường. Vậy em bình thường hay phi thường nhỉ?” Chẳng ai giải nghĩa được cả. 

Nhưng tuyết trắng Toronto chỉ nhắc tôi rằng tôi chỉ là một khoảng trắng. Tôi đáng lẽ nên vui mừng họa ti tỉ thứ sắc màu lên đó, nhưng tôi đã chẳng thể làm thế. Tuyết làm tôi quên mất màu sắc ban đầu của bức tranh, cứ như là tôi đã mất phương hướng vậy. Bút vẽ chấp chới trên đầu ngón tay, còn mực cứ nhỏ tong tỏng xuống nền nhà, tôi chẳng biết phải vẽ gì, bằng màu gì và đưa ai xem nữa. Toronto làm tôi buồn, một cái buồn rợn ngợp trong một ngày tuyết, một cái buồn xa xăm, đằng đẵng như tương lai. 

Bỗng Dương kéo tay tôi, anh luôn như thế, tựa như một sự cứu rỗi mà tôi chỉ muốn tránh né cả đời. Đôi mắt anh cứ tựa như tuyết, trong veo và đẹp tuyệt, và chúng phản chiếu tôi như một hình thể hoàn mỹ lắm ấy. Đôi mắt anh làm tôi thấy buồn vì lẽ ra tôi nên chỉ là tôi trong đôi mắt ấy. Nhưng tôi chẳng phải, tôi chỉ là một nhân hình méo mó trong một thế giới biến dạng và màu tuyết trong đôi mắt anh làm hình tôi lờ nhờ vẻ hoàn hảo. Và tôi căm ghét điều ấy. Có lẽ vì vậy mà tôi cũng ghét cả anh. Anh khiến tôi cảm thấy có lẽ tôi chẳng tệ đến vậy nhưng khi ánh mắt anh rời đi, tôi cứ như một kẻ đáng xấu hổ quay về hình dạng xấu xí ban đầu vậy, và đó là thứ cảm giác nhục nhã, đê hèn tột bậc. Nhưng anh không hiểu và cũng chẳng chịu hiểu, anh cứ như tuyết, đột ngột đến và đột ngột tan. 

Anh bảo tôi rằng: “Em đừng nghĩ nữa, sẽ có những thứ càng nghĩ càng đưa em vào lối mòn. Như là cách em nghĩ về bản thân em. Em luôn nghĩ em chẳng tốt đến thế nhưng có thể với anh, em tốt hoặc xấu hơn em tưởng và em chẳng thể bắt anh nhìn nhận em như những gì em muốn. Hoặc em sẽ ghét cách anh nhìn em, nhưng em chẳng làm gì được đúng không?”

“Thế nên em đâu có ưa gì anh”. Tôi buộc miệng nhưng chắc cũng không hẳn là thế. Tôi muốn làm anh tổn thương. Có lẽ tôi tìm thấy một thứ niềm vui vặn vẹo trong việc làm tổn thương anh hết lần này đến lần khác, hoặc đó cũng chỉ là một cách làm tôi cảm thấy bớt tội lỗi khi nhìn bóng hình chính mình trong mắt anh chăng? 

Dương vẫn cầm tay tôi, tựa như những mùa hè ngày còn nhỏ. Anh vẫn nhìn tôi trong tuyết cứ như thể anh đã luôn nhìn tôi suốt cả mùa hè. Nhưng mùa hè kết thúc từ lâu rồi và anh cứ vờ như anh đã luôn bên tôi trong cả mùa hè năm ấy. Thực chất có lẽ tôi đang tự lừa dối mình và anh cũng chẳng khác gì. Cuối cùng thì chúng tôi cũng chẳng khác nhau là bao, cuối cùng chúng tôi cũng chỉ là những con người vặn vẹo, ngước nhìn đối phương gục ngã và tự huyễn rằng chúng tôi cảm thấy có lỗi vì điều ấy.  

“Này, em cứ như thế ấy. Em luôn nghĩ như là chỉ mỗi em là sống. Kiểu như là chẳng ai xung quanh em ấy, kể cả khi em bộc bạch với người khác thì em cũng coi như là đang nói chuyện với người chết ấy. Em nói là em tầm thường, được. Em bảo là em không hoàn hảo, đúng. Em nói là em không thích anh, anh chấp nhận. Nhưng rồi sao? Em cứ làm như em bảo vệ luận án ấy. Em đưa ra luận cứ và liên tục phản biện, trong đó vốn dĩ giả thuyết của em toàn khe hở còn gì”. Dương ngừng lại và anh kéo tôi vào. Mùi chất hóa học bao quanh tôi và tôi tưởng như tôi đang trở lại phòng nghiên cứu. “Vì sao em lại cứng đầu thế này? Vì sao em chẳng nói gì cả? Em cứ sợ thế là sao? Chẳng có gì quá đáng sợ cả, em biết đấy, chẳng có gì đáng sợ cả em à”. 

Dương thở dài, hơi sương phả ra từ miệng anh và bay lên cùng mùi hóa chất. Anh chỉ đang thôi miên tôi, có lẽ vậy. Nhưng chắc là tôi cũng luôn muốn được huyễn hoặc như thế, như cách anh luôn làm từ ngày nhỏ đến giờ vậy. Anh luôn nói rằng tôi tốt đẹp hơn những điều tôi nghĩ và trong một vài lúc nào đó tôi đã từng tin anh. Nhưng bất chợt anh rời đi và trông tôi chẳng khác gì một thí nghiệm hỏng cả. 

“Thế còn anh thì sao? Anh cũng chẳng bao giờ nói gì cả. Anh cứ chờ đợi em tự phát hiện ra điều gì đó cứ như là anh tự huyễn là em phải thật sự hiểu anh vậy. Anh thừa biết là em sẽ không cảm thông cho anh đâu nhưng anh vẫn cố tình giả bộ đáng thương như thế. Anh tưởng em không nhận ra à? Anh luôn cố tình tỏ ra như kiểu anh đau khổ lắm vậy còn em thì là người sung sướng đúng không, vì ít nhất em không trải qua điều tồi tệ như thế”. Tôi gần như quát vào mặt anh và tôi đã thấy ánh mắt anh chợt buồn rầu đến lạ. Anh dường như chưa bao giờ buồn như thế nhưng vậy thì sao cơ chứ? Vì sao vì một thoáng buồn rầu mà tôi phải mềm lòng? Có lẽ thế giới luôn có quá nhiều bất công đổ dồn lên những người nào đó và đôi lúc trông theo ánh mắt họ, chúng ta cứ cảm thấy nỗi lòng mình mềm đi, nhũn nhặn đi và chỉ muốn được ôm lấy họ trong mềm mại và bao dung. Nhưng tôi đã chẳng thể bao dung cho bản thân mình. Sự dày vò cắn xé lấy tôi, vò nát nhân tính trong tôi, chỉ để lại một cỗ xác thịt khô cằn và bợt bạt. Ôi và giả như con người có lòng đồng cảm và một lòng đồng cảm sâu sắc, đơn thuần, có lẽ họ đã chẳng nhìn tôi như một kẻ dị loài, một thứ linh hồn cằn cỗi và vô cảm, một con thú trong lốt người. Nỗi buồn và sự nuối tiếc luôn hiện hữu trong tôi, như một bức ảnh cố nhân mà tôi đã xem đến mòn góc, như một hồi ức cũ kỹ và nhòe màu nhưng vẫn để lại rung động trong tim, như một thoáng bần thần nhìn chiều tàn mà ký ức cứ tràn về trên khóe mắt. Và cuộc đời bào mòn tôi, sự tự do mà tôi kiếm tìm cũng bào mòn tôi, cả sự bao dung cũng thế, nó cắn nuốt linh hồn tôi và chỉ để lại một trái tim cằn cỗi và một nỗi buồn bi thảm cho một con người đã chẳng thể sống với đức tin mà nó khẩn cầu. Và tôi đã chẳng thể cảm thông cho anh như những gì tôi muốn.

Thời gian trượt dài trên khuôn mặt chúng tôi, để lại ánh tàn chiều nhợt nhạt của mùa đông hôm ấy. 

“Anh luôn như thế. Cứ như là anh làm thí nghiệm vậy. Cân đo, đong đếm và so sánh cảm xúc như là nó là dữ liệu ấy. Xong là anh nhìn em cứ như bộ dữ liệu anh thu thập cả đời chứ không phải như một con người. Anh cứ nói như anh hiểu lắm nhưng thực chất đó chỉ toàn là những số liệu anh tự vẽ ra chứ chẳng có thứ nào là thật cả”. 

Dương vẫn nhìn tôi nhưng lần này ánh chiều vỡ tan trong đáy mắt và để lại hai hốc mắt ảm đạm. Tà dương bắt đầu ánh lên từ phía bên kia thành phố. Nắng chiếu lênh đênh trên gợn mây mờ đục rồi đổ màu vàng nhàn nhạt xuống những mái nhà phủ tuyết. Toronto mơ màng như một miền tiên cảnh. Có lẽ một lúc nào đó tôi sẽ cảm thấy yêu thành phố này hơn một chút và cả Dương nữa. Thật khó để tha thứ, càng khó hơn để cảm thông. Nhưng có thể vì một ngày đẹp trời mà tôi sẵn sàng quên đi thù hận, vì một ngày chiều đổ bóng mà tôi sẽ lại yêu anh, vì một mùa tuyết rơi đẹp tuyệt mà tôi sẽ ôm lấy anh như những ngày đầu. Có lẽ anh vẫn mong tôi và anh được như ngày mùa hè hơn, thu đến, đông sang, chúng tôi chợt đổi khác. Mà có lẽ cái đổi khác đó vẫn là chúng tôi mà thôi chỉ là chẳng còn sự bao dung nữa. Có lẽ Dương đã tha thứ cho tôi từ lâu sau từng ấy năm trả thù tôi bằng sự yên lặng và dường như sự yên lặng hiện tại của tôi lại là một cách trả đũa khác. Chúng tôi đã luôn ấu trĩ như thế. Chúng tôi càng khó để cảm thông và tha thứ cho chính mình, thế nên đôi lúc tôi và anh đành phải đổ lỗi cho nhau. Sống vốn đã khó khăn rồi, tôi chẳng đành dằn vặt bản thân nữa. Có thể cả tôi và anh đều đê hèn như nhau, chúng tôi trốn tránh trong chính mùa hè khi chúng tôi còn yêu nhau nhất để vờ như mùa đông chưa bao giờ từng đến.

Có lẽ sau đó chúng tôi sẽ cứ dày vò nhau và dày vò với cuộc đời. Đôi khi sự vượt thoát cũng chỉ là một liều thuốc tạm thời sau cơn mê man rồi lại đưa chúng tôi vào một giấc mộng phù hoa hào nhoáng nhưng mênh mang khác. Nhưng thế mới là đời, lặp đi lặp lại như một kiếp luân hồi. Thân thể hóa thành sự sống trong linh hồn bất tử rồi lại trầm luân trong một kiếp phàm trần. 


*


"Em hút thuốc à?"

"Thế anh không thấy à?" Tàn thuốc rơi vào tay tôi bỏng rát. Tên điên phòng nghiên cứu bên cạnh luôn thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma, đột ngột xuất hiện phía sau lưng người ta một cách lặng lẽ như vậy. Sao có thể không bị hù dọa được, cho dù tâm trí có đang chơi vơi trong khói thuốc, cho dù mọi sự chú ý đang bị phân tán tới phía trời sau làn khói mỏng tang. 

Anh xoay người và tựa khuỷu tay vào lan can, áp tấm lưng gầy vào kính. Khi anh ngửa đầu lên mái tóc vốn lòa xòa trước trán bay theo gió và mở ra một đôi mắt tinh tường. Gió thổi tóc bay đìu hiu, cái nắng buồn buồn của chiều đông chiếu ngang khuôn mặt anh và làm lộ ra những nét thời gian đọng lại trên đuôi mắt. 

"Em đừng hút nữa được không?"

Anh luôn tỏa ra một cái vẻ cô đơn khó hiểu như vậy, đưa ra những câu trả lời ngớ ngẩn và nhạt thếch, và đôi khi hứng lên một chút anh sẽ nói dông dài về những chuyện đời kỳ lạ. Người ta, ý tôi là những người bên phòng nghiên cứu cạnh đó, đặt cho anh cái biệt danh rất hợp: "Tên điên bên phòng lab". 

Tôi ậm ờ, cũng chẳng biết bắt chuyện sao với con người này, càng không hiểu vì sao anh đột nhiên bắt chuyện với tôi. Cũng chỉ như thường ngày, tôi ra ngoài ban công, tranh thủ mấy phút nghỉ để ngắm Toronto những ngày chiều đông dễ chịu thế này. 

"Em ghét anh à?" Rõ ràng sự im lặng mới chính là liều thuốc ngủ an lành cho những con người đa sầu đa cảm như tôi, thế những có những kẻ như anh, luôn hào hứng xé toạc sự an yên giả dối ấy ra để ép vào một thực tại đầy đau đớn. Mọi người bảo rằng anh là tên điên bởi lẽ dường như anh chưa bao giờ bận tâm tới bất cứ ai và bất cứ điều gì. Hoặc có lẽ chẳng điều gì khiến anh phải bận tâm. Anh cứ như là người chết trong một thế gian đang sống hoặc vốn dĩ thế giới đã chết trong cuộc sống của anh chăng? Và anh luôn nhìn tôi như một linh hồn lang thang, cứ như chúng tôi đều là những kẻ dị loài trong thế gian cô đơn này và khao khát kiếm tìm một lẽ sống, một điều để sống hoặc một đức tin khiến chúng tôi nhen nhóm hy vọng kiếp phàm trần.  

"Anh muốn thế nào?"

Anh hừm một tiếng rồi đối diện với tôi: "Anh đang hỏi em mà". Đôi mắt anh lấp lánh trong những hạt nắng dịu dàng một ngày tàn tháng 10. "Em ghét anh à?"

"Tất cả mọi người đều ghét anh, nếu đấy là thứ anh muốn biết. Ừ”. Có lẽ tôi luôn tìm thấy một thứ niềm vui vặn vẹo khi tổn thương anh hết lần này đến lần khác. Nhưng có lẽ anh cũng vậy. 

Anh hỏi tôi: "Anh đang hỏi em, cũng không phải anh đang hỏi mọi người".

Thằng khốn điên rồ luôn ép tôi phải nói ra những gì tôi đang nghĩ. Nếu như hắn ta là một nhân vật có tiếng thời Trung Cổ, có lẽ những thiên lịch sử sẽ khen hắn một câu "Một gã điên táo bạo luôn tìm tòi những điều kỳ bí của tâm lý con người". 

"Em là mọi người. Và cmn, im miệng." Thuốc cháy từ bao giờ, tôi mới kịp hít một hơi. Chết tiệt, thương hiệu này đắt lắm đấy!

Anh bỗng phụt cười, một tiếng cười trào phúng, một tiếng cười giễu cợt, một tiếng cười... tươi? "Nhưng em đâu phải là mọi người. Em chỉ lấy lý do để không trả lời anh thôi."

Tôi liếc hắn, kẻ điên, kẻ điên, kẻ điên. Anh biết thừa nhưng vẫn hỏi. Anh ôm lấy sự đau khổ như một kẻ khổ dâm và thích thú mỗi khi người ta dẫm đạp lên anh như thế. 

"Bây giờ em là mọi người. Nếu anh ra đây chỉ để nói linh tinh thì cút giùm vào nhé." Tôi lần tay vào túi áo và rút thêm một điếu thuốc nữa. Thuốc trên môi, lửa bật tách một nháy. Hắn giữ tay tôi lại. 

"Em đừng hút nữa được không?"

Tôi cố hất tay anh ra. Tên khốn kỳ lạ khác hẳn ngày thường, anh nói nhiều hơn, anh nói chuyện với tôi nhiều hơn và anh nói nhiều hơn với tôi về những thứ tôi chẳng thích thú cho lắm. 

"Không, thanks. Anh đừng xen vào nữa, anh biết mọi người đều không thích anh còn gì. Anh muốn nghe em nói rõ ra à?"

Anh kéo nhẹ tay tôi "Nhưng em không phải mọi người." giọng anh nhẹ bẫng "Anh đang hỏi em, anh muốn biết em có ghét anh không?" 

"Có, giờ thì cút"

"Vậy nếu như anh không ghét em thì sao?" Anh vẫn nắm cổ tay tôi, ánh lửa nhảy nhót liên hồi trong từng đợt gió, nó rung rinh trong đáy mắt anh và hòa với một chút ánh sáng mờ mờ phản lại từ sâu trong con ngươi đen ngòm.

Chẳng liên quan, chẳng hề liên quan "Thì sao? Thế có ích gì à? Anh giúp em qua được đống thí nghiệm à? Hay giúp cái PhD của em dễ dàng hơn?" 

Anh buông tay tôi. "Bao nhiêu năm em vẫn như thế."

Anh thì biết cái quái gì về tôi, một chút thời gian thảnh thơi thế là bị thằng này đốt sạch. Chán thật. 

"Đcm, nếu muốn tỏ tình thì thứ lãng mạn nhất anh có thể làm đấy chính là cho tên em vào trong cái nghiên cứu anh đang làm với giáo sư Grage. Thế nhé". Mất hứng, thật mất hứng, cất điếu  thuốc lại vào túi tôi thà quay về cái lab dở người đó còn hơn. 

Đi được 3 bước anh bỗng kéo tôi lại. "Anh biết rồi". Tôi quay đầu, gió thổi bung mái tóc chúng tôi. Tôi bỗng thấy khuôn mặt anh nhuộm màu nắng. "Thế nên, kể từ lúc anh bắt đầu chọn con đường này, tất cả các bài nghiên cứu anh đều đề tên em. Nhưng em không biết điều đó."

"Thế nên, anh đã tỏ tình với em tròn 25 lần bằng cách thức lãng mạn nhất". "Vậy em có thể đừng ghét anh được không?" 

Mẹ kiếp, 25 bài công bố, tất cả, nếu là sự thật, đều đề tên tôi, thật nực cười. Thể nào giáo sư luôn nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến trong khi tôi vẫn cứ fail thí nghiệm hoài. Nhưng cuối cùng tất cả cũng chỉ là một sự gian dối học thuật, một chiêu trò tình cảm phi đạo đức và sùi sụt mà anh đã luôn cao tay hơn. Suy cho cùng thì Dương đã hy sinh âm thầm như một Đức cha cao cả và có lẽ anh cũng thừa biết rằng chỉ có anh luôn tự cảm động vì điều ấy. Đôi khi mọi chuyện sẽ là như thế và chỉ nên là như thế mà thôi. Có lẽ anh đã thực sự không mong chờ sự hồi đáp nhưng đến một ngày anh bỗng nói ra thì chắc hẳn anh cũng nhen nhóm hy vọng sẽ khiến tôi mủi lòng. Hoặc có lẽ tôi luôn nghĩ xấu cho anh, vốn dĩ anh đã chẳng bao giờ mong chờ gì từ tôi. Anh biết, anh luôn biết điều đó. 

Nhưng có đáng không. Mọi thứ ấy. Có lẽ tôi đã lợi dụng lòng tốt của anh và sử dụng anh như một dịch vụ công mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc trả phí hoặc có lẽ tôi đã luôn coi lòng tốt của anh là một điều đương nhiên mà tôi hoàn toàn có tư cách để nhận lấy và phí hoài. Nhưng chẳng phải đó là bản chất mà anh vẫn muốn thấy hay sao, chúng ta chẳng thể nào làm những cuộc giao dịch mãi. Phần lớn thời gian thì chúng ta đều là những kẻ đơn phương, nhận hoặc lấy, và đôi lúc chúng ta lan tỏa điều ấy với người khác như một thứ nghĩa vụ, một trách nhiệm cao cả được in vào đầu chúng ta sau rất nhiều giờ tự huyễn rằng: “Lan tỏa lòng tốt là cách ta trả ơn”. Có lẽ là như thế đấy nếu như tất cả con người đều nghĩ được như vậy hoặc chỉ manh nha thế thôi đã là quá đủ rồi. Thế nhưng cuối cùng thì lòng tốt cũng chẳng về lại với anh như lẽ ra nó nên và phải làm, còn Dương cứ cố gắng sống một cách mông lung như thế, như một màn tuyết trải rộng khắp nhân gian. Và tôi đã nghĩ rằng tôi chỉ đơn giản là ghen tị với anh thôi, cứ như chỉ có anh là phép màu cuối cùng cho thế gian vẩn đục này vậy. Thế nhưng có lẽ tôi sai rồi. Chẳng có phép màu nào cả, một ngày nào đó tuyết cũng sẽ nhấn chìm anh mà thôi và cuối cùng thì đông Toronto vẫn chỉ là một mùa u buồn với vài hạt nắng lập lòe rồi vụt tắt.  

"Em đừng nghĩ có đáng không. Sự thật là anh chỉ muốn em đừng hút thuốc nữa thôi. Lúc em hút tất nhiên vẫn rất ngầu, nhưng em đừng hút nữa được không? Em nói chuyện với anh như cách em nói chuyện với Alan được không?”


Mặt trời lấp ló sau những mái nhà trắng xóa. Anh đứng đó, những sợi tóc bay lòa xòa như tan vào màu tuyết. Ánh chiều phủ lên mắt anh một thứ màu rợn ngợp của ngày tàn hôm ấy. Mong manh như khói thuốc, như tuyết tan, đẹp và buồn như ánh tà vỡ vụn trên nền trời thăm thẳm. Anh như tan vào bóng chiều, hòa vào nỗi buồn xa xăm của mùa đông năm ấy. Nhưng ngày chẳng hiểu, anh cũng chẳng hiểu. Cuối cùng chỉ có mình tôi hiểu được nỗi buồn của ngày đông. Khói thuốc lơ mơ, lênh đênh trong ánh chiều tàn. Ngày đông tan trong mắt, tuyết trắng mông lung. 

Anh vẫn đứng đó và chỉ đứng đó mà thôi. Anh chẳng hiểu gì và có lẽ chẳng ai hiểu được gì. Thế nhưng anh cứ ngỡ như biết được tôi buồn đến bao nhiêu. Chỉ có chiều đông hiểu tôi buồn nhưng nó cũng như anh thôi, chẳng biết được tôi buồn tới nhường nào. Tựa như khói mỏng, tựa như tuyết tan, tưởng như chạm vào nhưng tan dần trên tay. Mong manh như thế, đẹp như thế và buồn như thế. Ráng chiều tàn ánh lên rồi vụt tắt, chúng tôi hòa vào màn đêm, chỉ còn đầu thuốc lấp lóe rồi cũng tàn dần.


*


Lẽ ra câu chuyện nên kết thúc ở những dòng trên hoặc dù có kéo dài thêm thì cũng không nên là phần kết. Tuy nhiên tôi cảm thấy kết thúc của chúng tôi không nên là như vậy. Câu chuyện này không nên là một miền tăm tối, càng không nên chỉ ám giữ nỗi buồn. Tôi đã cố hết sức để viết một áng văn về nỗi buồn, sự đê hèn, sự thất vọng, sự tuyệt vọng, sự mông lung và nhất là sự nuối tiếc bằng những ngôn từ thi vị nhất trong tôi. Câu chuyện này không nên kết thúc bằng một buổi chiều đông tàn tạ. 

Các bạn nên được biết tôi và Dương là ai và rốt cuộc Toronto ẩn chứa điều gì. Một cách đơn giản nhất thì Dương là tôi nhưng tôi chỉ là tôi mà thôi. Dương là ánh sáng, là nắng, là bóng chiều tàn. Bạn đọc chắc hẳn cũng đã thấy trong cả mạch truyện anh luôn xuất hiện một cách “không đầu không đuôi”, cứ đột ngột nhảy vào, không mấy ăn nhập nhưng lại cứ vậy mà hòa vào mạch truyện. Tựa như nắng, anh là ánh dương, anh cứ chơi vơi như vậy, đến và đi, như một ngày trôi dần đến điểm tàn. Có lẽ anh chính là sự tự do tuyệt diệu mà tôi sẽ chẳng thể nào có được. Đẹp, buồn và vô định trong màn tuyết trắng. Dường như cái buồn rầu dịu hiền ấy của ngày đông cũng đã tan dần khi nắng vàng chiếu xuống, màn tuyết tựa như một bức bích họa dưới bóng tàn đỏ của một buổi chiều đông. Dương đột ngột đến và đi, anh không bắt đầu câu chuyện càng không kết thúc, anh chỉ là hạt nắng bỗng rơi vào một miền u thẳm rồi chợt tan biến. Anh chẳng can hệ điều gì mà càng chẳng có gì níu giữ được anh, anh tựa như một linh hồn trong nắng, phản chiếu tất cả nhưng chẳng ôm lấy thứ gì. Anh là sự cứu rỗi mà tôi tự dành cho chính mình và cũng để nhắc nhở rằng đã có lúc tôi được nghĩ về một sự tự do tuyệt đối đến thế. 

Mùa đông Toronto chính là cuộc đời tôi. Nó là sự vô định, sự u ám, sự giày vò, sự ám ảnh và sự nuối tiếc. Toronto không phải là một câu chuyện, nó chỉ là một cuộc đời mà có lẽ là sẽ còn đổi khác sau rất nhiều năm nữa. Thế nên tôi đã viết về Toronto, ở một mùa đông trong những câu chuyện khác nhau. Toronto là một khoảng lặng rất dài của đời tôi, ở đó có quá nhiều diễn biến, điểm bắt đầu, sự biến chuyển và kết thúc, kéo theo rất nhiều chiêm nghiệm, nỗi buồn và suy ngẫm cho những điều đã chẳng thể đổi khác. Nhưng có lẽ tôi đã không đi qua được mùa đông Toronto và chẳng ai có thể đi qua một mùa đông rợn ngợp như thế. Cuối cùng thì chẳng ai trong chúng ta được sống tự do một cách tuyệt đối cả, cuối cùng thì tôi cũng chỉ cố gắng thoả hiệp với một sự tương đối nào đó để cuộc đời trôi qua cho đủ thì giờ. 

Dường như tôi là một kẻ cực đoan, như Ayn Rand vậy. Tôi đau đáu về một sự hoàn mỹ vốn chỉ nên tồn tại trong những áng văn thơ hay những câu chuyện truyền kỳ, và có lẽ sẽ tốt hơn nếu tôi dần chấp nhận sự tương đối như một lẽ đời mà con người luôn phải thỏa hiệp. Nếu như đã vậy thì lẽ sống rốt cuộc cũng chẳng có mấy ý nghĩa. Chúng ta tự do. Nhưng rốt cuộc cũng chẳng tự do. Có lẽ con người thường chấp nhận sự tạm bợ để họ đỡ đau buồn và cũng bớt tiếc thương cho một cuộc đời chẳng thể vẹn toàn như họ hằng mong muốn.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout