Truyện ngắn: Ngày so rô nở
Tác giả: An Di
Từ đằng xa có thể trông thấy, một thân trơ trụi những cành, cây so rô đứng sừng sững giữa bãi đất hoang. Nơi đây từng là một xưởng mộc. Và nhớ cái ngày nó nở hoa, thật rực rỡ biết bao.
Vĩnh đã nói nó sẽ ra hoa, chỉ là không biết bao giờ và không phải ai cũng có duyên để mà thấy. Tôi cứ cho đó là một cách nói huyền bí hóa cho một loài cây không hoa. Thay vì nói nó không có hoa, người ta nói có nhưng chẳng biết bao giờ.
Vào ngày tôi đến xưởng mộc của Vĩnh sau nhiều năm dài không qua lại, cái cây trông chẳng khác gì bây giờ, cũng xác xơ, tróc lở. Nhưng anh bạn của tôi không có ý định đốn bỏ cái nhánh xương xóc đâm ra từ mặt đất không có lấy một nhúm lá làm thuốc ấy. “Kệ, nó ở đây trước mình”. Và Vĩnh đã chăm tưới cho nó. Ít lâu sau một vài chồi non đã nhú ra khỏi lớp vỏ cây khô, ít lâu sau nữa tán cây đã phủ bóng che mát trên mái xưởng.
Khó mà hình dung một người từng là tay chơi có máu mặt hồi nào giờ lại có thể nhã nhặn với cả cỏ cây. Giống như hai quãng thời gian trước và sau khi về xưởng mộc là có hai thằng Vĩnh.
Thằng Vĩnh đầu tiên mà tôi biết mặc bộ đồ học sinh vạt áo nửa trong nửa ngoài, tai trái xỏ khuyên, đấm ông thầy sặc gạch vào một buổi học hè, luôn đội sổ nhưng bằng một cách nhiệm màu nào đó vẫn qua được tốt nghiệp cấp ba. Cũng cái thằng đó sau đó vài năm xỏ thêm mấy cái khuyên bên tai, chạy mô tô, sành sỏi hết thảy những hộp đêm trong thành phố, lãnh thêm mấy cái sẹo khủng bố trên người, nửa đêm hay dựng đầu tôi dậy bằng tiếng gõ cửa và đong ngập căn phòng trọ bằng hơi bia.
Cái thời còn ở chung gác trọ ấy, tôi đã cố độ cho nó bớt trác táng lại, bằng sách, bằng thể thao, bằng đàn hát… mà không ăn thua gì với cái đầu bổ ra chỉ có bia với nhạc sàn ấy. Chỉ sợ có ngày ai đó gọi cho tôi đến hốt xác nó, nhưng may mắn trong ba năm ở cùng nghiêm trọng nhất chỉ là lần nó bị tông xe gãy tay. Đôi lần mang cái mặt bầm dập về không đến nỗi và vài đêm trong cơn say ôm gối khóc kêu Lan kêu Huệ gì đó, tôi cười khẩy, tưởng đâu hoành tráng rốt cục cũng không ra khỏi cái bóng đàn bà.
Cách một quãng đâu đó khoảng bảy năm, tôi gặp lại một thằng Vĩnh thợ gỗ đằm thắm, im lìm. Một ngày tình cờ tôi mang cái tủ đầu giường đến đánh bóng, đinh ninh là sẽ gặp ba nó, còn định hỏi thăm nhân sự có về thường không, thì gương mặt hồi đó từng nằm ngáy o o ở giường bên dưới mình hiện ra sau cánh cửa. Mời nhậu không uống. Và ăn chay.
Sự thật thì có một thứ ở Vĩnh không đổi, đó là cách nó nói chuyện với tôi. Nhẹ nhàng. Dầu cho nó có chém ai đó mỏi tay nhưng chưa bao giờ nó lớn giọng với tôi. Song gặp lại vẫn có chút không quen. Hình ảnh một thằng người đứng trong bếp vớt rau ra khỏi nồi, gắp thức ăn bỏ vào chén người khác hay ngồi thơ thẩn ngoài thềm cửa là của tôi chứ đâu phải của nó.
Thời gian làm thay đổi nhiều thứ đến không ngờ. Từ độ đám sinh viên bị trường đuổi cổ, chúng tôi không còn ở cái cảnh sáng nào cũng thấy mặt nhau trước hết nữa, lâu lâu mới hẹn nhau cà phê. Sau những năm tháng bon chen nơi xứ người, lăn lóc qua những công ty, cuối cùng thì ai cũng quay về cố hương, để ngày của mình trôi nhạt trong nếp sống mà mọi thứ đã quen mòn mắt. Tôi vét được chút tiền mở một tiệm bánh ngọt bán tắc ten, còn Vĩnh quay về nối nghiệp cha làm chủ xưởng mộc.
Ba Vĩnh, xưa tôi gặp trong sân trường hoài những lần ông được thầy mời lên mắng vốn, đã mất trong trận dịch viêm phổi mấy năm trước. Tệ là nó không cho tôi hay. Và đừng ai hỏi tôi mẹ nó đâu vì đến ba nó còn không biết. Tôi nhớ lần đầu cũng như lần cuối thấy mẹ nó là vào một ngày đến đón nó đi học. Đó là một người đàn bà trông dễ lầm với mọi người đàn bà khác. Vĩnh đã cắn chặt môi vào lúc tôi hỏi nên từ đó về sau tôi không hỏi nữa. Lớn lên chút thì tôi được biết rằng mẹ Vĩnh đã sớm bỏ cha con nó. Một cuộc tình chóng vánh, một sinh mệnh rơi tõm vào bể đời. Người phụ nữ đào hát ấy không được lòng bên nội Vĩnh cho lắm, cũng dễ hiểu. Nhưng chính Vĩnh cũng bị hắt hủi thì hơi đau lòng, vì họ nghi ngờ Vĩnh có thật sự là giọt máu của ba nó chăng. Trông nó thật sự chẳng có nét gì giống ông. Nhưng tôi không cần xác minh làm gì, qua những lần gặp riêng với ông năm xưa mà chủ đề nói chuyện thường xoay quanh việc gửi gắm sự học của nó, còn nhớ có hôm ông rớt nướt mắt khi nói mình luôn cố gắng bù bắp phần thiếu hụt tình mẹ cho nó mà dường như chưa bao giờ đủ, tôi tin tình thương đó ngàn lần xứng đáng là cha.
Cho nên tôi thường nghĩ cái tính cỗi cằn thô thiển ấy của nó hình thành là do thiếu hơi mẹ. Xốc nổi và ngang tàng. Biết bao “thành tích” đã được ghi lại bởi thằng học trò cá biệt lưu lạc vào lớp tôi năm mười bảy tuổi. Nhưng rồi cũng một ngày nào đó của năm mười bảy tuổi, tôi tình cờ đi ngang sân banh sau trường, thấy một cái lưng thui thủi ngồi trên ghế đá trong chiều phai, chốc chốc đưa tay áo quệt lên mắt, tôi đã chạnh lòng. Lúc đó chúng tôi chưa phải gọi là thân, dù ngồi cùng một bàn, nhưng cũng đủ tư cách để hỏi thăm, cớ gì lại khóc? Đợt đó trường tổ chức sự kiện văn hóa liên quan đến chủ đề mẹ, hóa ra con sói hoang bé nhỏ tủi thân vì không có mẹ. Từ đó cái nhìn của tôi thay đổi. Dường như thời đó chỉ có mình tôi là không xem nó như cục ghẻ của lớp, chỉ có tôi nâng đỡ, kèm bài, bao che và xức dầu cho những lần nó bươu đầu mẻ trán. Bởi tôi đã thấy điều mà không ai thấy.
Cho đến bấy giờ, cũng mang cái chạnh lòng đó tôi nhìn Vĩnh ngồi đếm hoa nắng trong sân nhà, căn nhà mà từ độ chiều tàn nhân công về hết trở nên quạnh vắng vô cùng. Xưởng mộc của Vĩnh cách tiệm bánh của tôi hơn cây số, qua vài con đường nhỏ lòng vòng trong xã, tôi hay đến vào đầu tuần. Giao lại tiệm bánh cho đứa em gái, tôi sẽ mang chút bánh sang cho Vĩnh, ở bên xưởng mộc chơi một buổi chiều, có khi giúp nó một tay nếu xưởng nhiều việc, có khi ở lại ăn tối. Ngày nào có dự định ăn chực, tôi sẽ gọi về cho nhỏ em nấu cơm ít lại, cả nhà sẽ không phiền khi tôi vắng mặt bởi vì cái mặt mà tôi đang đến ăn chực năm xưa cũng đã ăn hết không ít cơm gạo nhà tôi. Song thân tôi cũng thường hay nhắc Vĩnh, sao ít thấy qua chơi, tôi nói giờ người ta là chủ cả rồi, công việc túi bụi rảnh đâu mà đi. Ba mẹ tôi nhìn thấy cái gì đó ở Vĩnh mà tôi của thuở đó chưa thấy, họ hay nói thằng này về sau ở trên thiên hạ chứ không dưới. Và dường như không biết hay biết mà không quan tâm đến tai tiếng của Vĩnh ở trường, hai ông bà mến nó hết sức.
Vùng quê bình dị trải qua mùa hè nắng đỏ, thứ nắng làm bốc hơi hết sức sống người ta đi. Đợt nhằm giai đoạn xưởng ít việc, Vĩnh rủ tôi đi dã ngoại. Nó rủ ngay cái ngày tôi có lịch đi đám cưới bà con ở xa, mà nó lại không dời lịch được. Tôi về rút chân ra khỏi chuyến đi đã đặt xe sẵn trong màn kêu gào của cả nhà.
Sáng hôm đó, cả nhà tôi đi hướng bắc, còn Vĩnh và tôi đi hướng nam. Chúng tôi dựng trại bên rìa rừng giáp với bờ hồ. Khi trời đã tối hẳn, trông cái thằng người ngồi yên lặng nhìn ánh lửa lập lòe trên đống củi, râu xanh lún phún và pháp lệnh đã hiện dần, cảm thấy đằng sau như có một khoảng thăng trầm sóng gió nào đó mà mình chưa biết.
Nhớ lần cuối tôi đi chơi xa với nó là cách đây bảy tám năm rồi, trong chuyến đi thăm quê một người bạn của nó. Quê bạn ruộng đồng đãi ăn những món ruộng đồng, trong khi tôi nhìn ớn nhợn này đuông dừa này chuột nướng này ếch kho sả nghệ, thì Vĩnh ra vẻ can trường xốc nuốt. “Người ta chơi tới đâu thì mình chơi tới đó chứ”, nó nói và tôi chỉ biết lắc đầu. Thuở đó nó hãy còn là Vĩnh-xỏ-khuyên, bây giờ thì là Vĩnh-ăn-chay.
- Có gì đâu, thì là chán rồi thôi. - Vĩnh nói. Một câu giải thích nhẹ nhàng cho một sự thay đổi ngoạn mục. - Tao đã luôn tìm kiếm, một nơi mà niềm vui hay hạnh phúc có thể còn mãi, nhưng hết lần này tới lần khác đều phải vỡ mộng. Xe cộ, hội hè, hút sách phê pha và những cuộc tình, tất cả những thú vui đều trở nên nhạt nhẽo.
Chút an ủi được tìm thấy khi Vĩnh cởi xuống nhân cách cũ (và cả mấy cái khuyên) và quay về sống một cuộc sống bình dị. Không mặn mà với tiền nữa, Vĩnh trả lương cho nhân công và dành phần lớn tiền kiếm được cho những việc thiện nguyện trong xã. Mới hay cái trại trẻ khuyết tật và người già neo đơn bên xóm Trảng được xây sửa gần đây cũng nhờ có phần đóng góp của nó.
- Nhưng đấy cũng không phải là điều tao có thể làm mãi - Vĩnh nói - Đấy chỉ là những thứ bên ngoài, mày có hiểu không? Chúng ta vẫn cần cái gì đó để làm, để thấy ý nghĩa. Nhưng bất kỳ cái gì có thể được tìm thấy thì đều không bền. Có lẽ mày nghe hơi nhức đầu, nhưng tao không biết cách diễn tả. Ý tao là… phải có một cách nào đó, một cái gì đó hoàn toàn không giống với những gì mà người ta từng biết, chỉ có điều đó mới không khiến ta vỡ mộng.
Dường như suốt buổi tối khi đống lửa trại chưa tắt tôi chỉ ngồi nghe, chưa bao giờ Vĩnh nói nhiều như vậy, đến độ có giây phút tôi nghĩ cái thằng này đã ăn nhầm cái gì hay ai dựa nó. Thật sự tôi chưa đi đến chỗ để nhìn mọi sự ra như thế. Cảm giác chán chê một lối sống thì hiểu rồi, nhưng chán chê cái này có nghĩa là ta cần một ý nghĩa nào đó khác, chứ tôi chưa nghĩ đến chỗ gọi là dừng lại.
Giống như Vĩnh đã từng là ý nghĩa của tôi, một cái ý nghĩa kéo dài tám năm. Từ ngày mà tôi vô tình thấy nước mắt của nó, mối quan hệ giữa chúng tôi mới bắt đầu thân. Đổi lại cho những hỗ trợ trong việc học, tôi có một đứa bảo kê uy tín, tránh được nhiều rắc rối từ những tên ngỗ nghịch khác. Hai đứa như hình với bóng, nhưng hẳn bàn dân thiên hạ không ai nghi ngờ có ai trong chúng tôi có thể có với người còn lại một thứ tình cảm đặt biệt hơn là bạn bè, bởi vì tôi quá giỏi trong việc giấu mình. Sau này nghĩ lại có lẽ hạt mầm trong tôi đã phải được gieo từ buổi chiều phai ấy, hoặc có khi là từ ngày Vĩnh chuyển khẩu từ lớp bên sang. Nhưng cột mốc đánh dấu rõ nhất là vào đợt trường có hội cắm trại, nửa đêm cả thảy nằm ngủ xếp lớp như cá mòi trong cái lều liêu xiêu, lần đầu tiên trong tôi xuất hiện cái cảm giác nao nao khi gương mặt nọ kề sát bên mình. Mùi hơi thở của nó khiến tim tôi nhảy dựng. Kể từ đó, cách tôi nhìn nó không còn giống cách nó nhìn tôi. Và cho suốt bốn năm xa quê mà đời ném hai đứa vào chung một cái hột quẹt giữa lòng thành phố, tôi luôn đi sau dọn dẹp những đổ tháo mà nó để lại bởi lối sống phóng túng của mình, luôn để hờ thức ăn mỗi tối và cũng làm chỗ dụi nước mắt cho nó vào những phút yếu lòng vì những bông hồng không hái được. Ấy vậy mà không hiểu sao tôi vẫn chịu được suốt bấy nhiêu năm. Một ý nghĩa tưởng chừng như bất diệt, nhưng có vẻ không có cái gì trên đời này là như thế cả. Tôi không biết có phải cái quãng xa vắng khi mà hai đứa phải tự đi làm nuôi mình đã làm cho tình cảm héo phai, hay do nỗi lo cơm gạo, hay do tuổi mình đã đi qua khỏi cái thời mộng mơ, mà giờ những rạo rực, thắc thỏm, nhớ nhung đã không còn nữa. Không có nó thì mình vẫn sống phây phây, đời buồn sẵn rồi, có thêm chút cũng không khác mấy.
Có lẽ vì thế mà lúc ấy tôi đã không còn e dè khi bất chợt Vĩnh hỏi “Mày còn yêu tao không?”. Tôi ném thêm nhánh củi vào đống lửa, vài cái lá khô cháy rực lên rồi tàn lụi, “Ờ, không thể nói còn, cũng không thể nói không, chỉ là giờ ở cạnh mày thì tao vui, nhưng vắng mày thì tao cũng không chết được”. Hóa ra thằng này cũng tinh ý, tôi cứ tưởng nó ngu mãi không nhận ra đấy chứ. Vĩnh nói nó cảm thấy có lỗi khi đã không quan tâm đến tôi nhiều. Nó thừa biết chuyện tôi yêu thầm nó nhưng tình cảm giữa hai đứa con trai là một thứ gì đó mà nó chưa từng hiểu nên nó cứ e ngại. Giờ thì nó “hơi hơi” hiểu, không phải là nó đã trở nên giống tôi mà là đã đủ “già” để thấy thật ra chuyện đấy cũng không phải cái gì đáng sợ hay đáng phải ruồng bỏ. Nó cũng muốn thử cảm giác gần gũi và không ai khác có thể phù hợp hơn là tôi. Tôi thì không thiết tha cách đối xử theo lối vay trả hay thương hại như vậy, nghĩ trong bụng “mày thôi đi, không biết để cho không biết luôn đi, để mà có gia đình như người ta, không thôi tao mang tiếng dụ khị mày”, nhưng rồi tôi đã không nói. Có lẽ cái bản ngã tự tôn đã cùn mòn qua thanh xuân, hay do tôi đã chia tay người trước khá lâu đến nhớ cảm giác hơi thở một ai đó trên mũi mình, để cuối cùng vẫn nhận một nụ hôn từ nó.
Cuộc trò chuyện kết thúc bằng nụ hôn của Vĩnh. Khi rời môi nhau ra, cả hai chìm vào sự im lặng của vùng bờ hồ hoang vu. Đống lửa cháy hết củi chỉ còn một bãi than hồng, trên trời một chiếc máy bay lấp lánh xuyên qua tầng mây và nó chui vào một đám mây khác trước khi tôi kéo dây kéo cửa từ bên trong của cái lều. Tôi trằn trọc suốt đêm đó. Tôi không dám nghĩ mình và nó có thể nương tựa nhau lâu dài, chưa chắc đó là điều mà nó muốn và thậm chí tôi cũng chưa chắc đó là điều mà mình muốn. Vĩnh chợt nắm lấy tay tôi, người vẫn nằm im mắt nhắm nghiền. Tự dưng tôi cảm thấy có một nỗi trống vắng nào đó ở Vĩnh mà tôi không biết làm sao để lấp đầy. Hay trống vắng đó là của tôi? Tôi cũng chẳng rõ.
Sau chuyến đi ấy về, chúng tôi không đá động gì đến chuyện đêm hôm đó, vẫn cư xử như bình thường. Tôi không đến nhà Vĩnh thường hơn cũng không gần gũi nó hơn. Có chút gì đó hơi hơi thất vọng. Thời gian đó tôi cũng bận rộn với việc xây sửa lại tiệm bánh của mình. Sau nhiều năm kinh doanh cũng có chút dư, thấy cần thiết phải nâng cấp cơ sở vật chất một chút. Nâng cấp xong thì công việc cũng sẽ tăng lên, có một trường mầm non vừa ngỏ lời hợp tác về việc cung cấp bánh cho căn tin. Hồi trước cũng từng có lời ngỏ từ mấy quán cà phê nhưng tôi đã từ chối, không phải vì không đủ sức làm mà vì tôi còn muốn dành thời gian cho mình. Nhưng sau chuyến đi với Vĩnh về tự dưng tôi cảm thấy khác, thấy ngày ngắn đi nhưng đời thì dài đằng đẵng, nên mới muốn vùi mình vào công việc.
Gia đình nói tôi bắt buộc phải cần thêm người làm phụ. Nói là vậy nhưng tôi biết hàm ý là muốn tôi lập gia đình. Chắc nôn nóng vì bạn đồng trang đều đã lên chức ông bà, mẹ tôi thường thúc giục: “Mày cho tao gỡ lại coi, tao đã nhét hết mười bảy cái thiệp rồi”. Ba tôi thì không hối thúc gì, ông nói chừng nào cũng được, nhưng trai trưởng mà không nối được cái gia phả thì ông chết không nhắm mắt cho xem. Nhưng sao tôi thấy sợ quá chừng, cái gọi là gia đình đó.
Ba mẹ tôi từ lâu đã không còn ở chung một phòng nữa. Tôi chưa từng nghe hai người cãi vả, chỉ là bỗng một ngày phát hiện ông ở nhà dưới, bà ở trên lầu. Dẫu vậy, họ vẫn cơm nước thuốc men cho nhau, khi nào có công chuyện thì vẫn đi cùng nhau. Từ ngoài nhìn vào đố ai biết bên trong không phải như vậy, đến tôi còn không biết. Nhưng trông cái cách mà hai người giấu đi những rạn vỡ để giữ cho gia đình không xào xáo, như giấu sóng xuống đáy ngầm, thấy buồn rười rượi. Đó là chỗ mà tôi chưa sống tới để hiểu.
Nhưng sau chuyến đi ấy thì tôi dần hiểu, rằng bây giờ việc tôi đối tốt và quan tâm Vĩnh chỉ còn là thói quen mà thôi, chứ tha thiết là không còn nữa. Vào khoảnh khắc tôi nhận nụ hôn của Vĩnh, sâu thẳm trong lòng văng vẳng có tiếng nói: “Không phải, không phải…”.
Rốt cục thì tôi muốn gì ở cuộc đời và cuộc đời muốn gì ở tôi? Tôi cũng không biết nữa. Liên kết của tôi với thế giới này quá lỏng lẻo, nó chỉ vương vấn với một vài người mà rồi cũng sớm mang một định mệnh tàn phai. Người ta luôn cần một thứ gì đó để nương tựa vào, có phải không? Khi người phối ngẫu mất đi ý nghĩa thì người ta chuyển kỳ vọng sang đời sau, muốn nhìn thấy con cái trưởng thành và tiếp nối. Đó là con đường của thế gian, con đường tôi không thể đi.
Giai đoạn đó, ba tôi bị tai biến nhẹ, sau năm ngày nằm viện thì được trở về song người cũng yếu đi. Mẹ thì bị xương khớp hành đi lại đau nhức, phải dọn xuống tầng trệt ngủ. Tôi bắt đầu cảm thấy gánh nặng ngả lên vai mình. Đôi khi thấy có lỗi với bản thân khi hơn nửa đời cứ cố sống cho ra mặt con ngoan trò giỏi, hứa với lòng sẽ một lần quẳng mọi thứ đi để được sống vì mình. Nhưng chắc chưa phải lần này.
Tôi liên hệ qua mạng và hợp tác được với một bạn nữ cũng cùng hoàn cảnh. Chúng tôi sẽ cùng nhau dựng lên một gia đình bình phong để gia đình yên lòng và thiên hạ im mồm, sau lưng thì đời ai nấy sống. Cô gái ấy tôi gặp lần đầu trong một quán nước đã hẹn trước, nhan sắc phải nói là đến tôi còn có chút xao động, tiếc là nó không tìm một bờ vai cứng cáp mà lại kết duyên với một cô bé nhỏ tuổi hơn. Chúng tôi sẽ đến nhà nhau chơi, rảnh rỗi sẽ cùng nhau đi đây đó để có kỷ niệm chung để về sau kể lại đỡ phải dựng chuyện.
Bận diễn cái vở kịch đó, bẵng một thời gian tôi không gặp Vĩnh. Một ngày điện cúp, trưa tôi đóng cửa tiệm bánh sớm để sang xưởng mộc, đến nơi thì thấy cửa khoá ngoài. Không gọi điện được. Nhiều ngày sau tôi chạy ngang đều thấy cái ổ khóa vẫn treo lẳng lặng đó. Một ngày vô tình tôi gặp một người làm công bên xưởng, người nói Vĩnh đã ngưng nhận việc từ tháng trước, nghe đâu đất này là của chú bác gì đó giờ người ta đòi lại, xưởng sẽ tạm ngưng hoạt động cho đến khi tìm được chỗ khác, nhưng Vĩnh đi đâu thì họ không biết. Căn nhà trên miếng đất này tôi biết là cha con Vĩnh ở xưa giờ, nhưng thật không biết chuyện ai đó khác sở hữu là như thế nào.
Không hi vọng gì với cái điện thoại, những ngày sau tôi đi tìm kiếm vết tích của những vụ tai nạn trên đường, hỏi thăm tin tức và chạy loanh quanh những nơi mà tôi đoán một người có thể đến vào những lúc sầu muộn: cánh đồng, bờ kè, quán xá, bến sông… Lúc đụt mưa trong một mái hiên nhà ai đó đóng cửa, thấy chị gái đụt cùng gọi chồng mang áo mưa ra đón, tôi lại nghĩ về gia đình. Có lẽ cái người ta thật sự cần là đây chăng? Cảm xúc rồi sẽ không còn quá quan trọng nữa? Người ta chỉ cần những người mà trong những lúc như thế này có thể gọi được và đến được. Hoặc cần một người để đi tìm, dẫu rằng chỉ để biết người đó còn đó rồi thôi.
Một bữa chạy ngang chùa Liễu Phong, thấy dáng ai ngồi trong sân giống giống, tôi rẽ vào. Hoá ra không phải. Tôi nán lại một chút trong sân chùa. Trong khuôn viên chùa có một cây so rô tầm vóc cũng tựa như cây so rô nhà Vĩnh. Nghe mấy người ngồi gần đó kể chuyện dưới bóng cây này năm xưa là nhà của một ông lão, thuở đó chùa còn chưa mở rộng sang bên này. Lão già sống một mình, hàng ngày đi xin ăn và đến quét lá trước cổng chùa, lâu năm ai cũng quen. Rồi một ngày lão đi thăm từng người, từ hôm đó thì không ai thấy ở ngoài chợ hay trong chùa quét lá nữa. Người ta tìm đến nhà mới thấy lão chết ngồi khô xác, chùa mới đem đi thiêu, nhục thân để lại một trái tim xá lợi.
Lúc ngồi nhìn cái cây trong chùa và nghe câu chuyện nọ tôi chợt nhớ đến cái cây nhà Vĩnh. Trí nhớ của mấy ngày qua gợi lại hình ảnh một cây so rô xanh tốt, không còn là cái cây giống chết nữa. Tự dưng tôi có một dự cảm: có khi nào Vĩnh ở trong nhà không?
Ý nghĩ đó xốc tôi đứng dậy chạy thẳng về xưởng mộc, trèo tường vào. Chút kinh ngạc dâng lên khi thấy cửa nhà trong khép hờ, tôi lẳng lặng đi khắp nhà và lúc vòng ra cửa hậu sân sau thì bất thình lình đụng mặt nó. Vĩnh trưng gương mặt hơi hốc hác trước cái nhìn căng thẳng của tôi và cười xòa, nói mình ở trong nhà suốt cả tháng nay, chỉ ăn và ngủ. Tôi gác lại việc truy vấn mắc gì ở trong nhà mà khóa cửa, hỏi sang chuyện đất cát mà người nọ đã nhắc đến.
Vĩnh kể, chuyện là mảnh đất này vốn của ông nội. Ông nội có hai dòng con: hai người con bà lớn và ba Vĩnh là con bà nhỏ. Hai người kia có nhà ở xa, xưa giờ vốn cũng không mặn mà gì với ba Vĩnh. Đến khi ba nó đến với một người phụ nữ đào hát là mẹ nó thì họ càng không ưng. Trước khi ông nội mất, họ làm giấy tờ thế nào mà bây giờ đất này là để lại cho họ hết. Ba Vĩnh cũng không hay biết gì mà đã mất vội.
- Mày phải xem coi giấy tờ đó như thế nào, có hợp pháp không? Nếu cần thì tao kiếm luật sư cho.
- Thôi, không cần đâu. Họ đã muốn thì cho họ lấy.
Tôi hơi sững người. Thằng Vĩnh trước kia đâu rồi? Cái thằng sẵn sàng châm lửa hay chọi lựu đạn vào nhà mà nó ghét ấy? Thật sự thì tôi không khuyến khích nó hành xử giang hồ, mà chỉ làm cho ra lẽ. Nhưng trông nó chẳng có vẻ gì là bận tâm, nó cứ bàn ra.
Chuyện Vĩnh “ẩn cư” chắc chỉ có mình tôi biết. Lần sau đến tôi âm thầm đi xem, sau vườn rau quả vẫn còn y thinh đó, trong nhà gạo còn nửa thùng, tủ lạnh vẫn còn chút bánh trái của tôi đem đến, đã khô như gạch. Dưới bóng cây so rô có một cái ghế đẩu chân cắm sâu vào đất và đóng rêu xanh dờn, nhưng mặt ghế thì sạch bong. Tự dưng tôi mường tượng ra cảnh Vĩnh ngồi ở đấy suốt nhiều ngày đêm bất kể cả mưa lẫn nắng mà mãi về sau tôi mới ngờ ra, có lẽ trong chính thời gian đó mà Vĩnh đã tìm thấy điều mà nó muốn tìm.
Thời gian đó đồ đạc bên xưởng mộc đã được dời dẹp cho gọn, nền nhà sạch hết dăm bào. Sự sạch sẽ có mùi hơi bất an. Tôi nói với Vĩnh là nhà mình còn một miếng đất nhàn rỗi bên nông trường, thống nhất với nó là xưởng mộc sẽ dời ra đó. Ban đầu gia đình tôi có chút bất đồng nhưng rồi mọi người cũng đi đến đồng thuận cho Vĩnh ở, lấy tiếng là cho thuê nhưng cũng cho thong thả. Tôi dành ít ngày chạy tới chạy lui để coi ngó việc dọn dẹp cỏ rác ngoài đó, đổ nền lên cao, kéo rào, đi điện nước…
Mảnh đất này ba mẹ tôi mua bằng tiền nhàn rỗi lâu rồi. Về sau có lần đi ngang đây, ghé uống cà phê ở cái quán bên kia đường, tôi ngồi ngắm nghía quan cảnh thật lâu, mường tượng ra một ngôi nhà nhỏ núp dưới bóng cây, ở đó không có bụi đường, không phải hít hơi máy lạnh lờ lợ, sáng dậy ngó mặt trời mọc sau lưng đồi và chiều trông mặt trời lặng xuống rừng cao su. Làm gì ăn thì chưa nghĩ tới, nhưng tôi đã mơ một cuộc sống như vậy. Lạ là không những lúc mơ màng đó không hề thấy người. Dường như trong vô thức tôi không tin mình có thể có được người bầu bạn, hoặc cũng có thể đó là lúc nào đó trong tương lai mà lòng mình đã thôi đau nhức bởi cái lạnh lẽo của cô đơn. Tôi ngỏ ý mua lại miếng đất đó từ ba mẹ. Ba mẹ không bán, nói mày đi bàn với em. Ngôi nhà chính trên phố có tiệm bánh theo dự tính của ba mẹ là thuộc về tôi, kẻ mang trọng trách gánh cả dòng họ, còn miếng đất kia là ba mẹ dành cho nhỏ em làm của mai sau nó có lập gia đình. “Nếu mày ở đó thì ba mẹ cho nó ngôi nhà này”, ba mẹ nói, nghe nửa đùa nửa thật. Nhưng tôi chấp nhận không nghĩ ngợi, bởi đó là em tôi và đời tôi thì không có chi phải cần nhiều. Có hai đứa con thôi, ba mẹ đâu phải sợ chuyện chia không đồng. Phần nhiều dành cho người nặng gánh là chuyện đương nhiên, chỉ là không biết họ có cảm nhận được mùi muốn buông gánh ở tôi khi tôi đòi phần thiệt.
Cũng giai đoạn đó, bạn đối tác của tôi chợt đổi ý. Cô ấy muốn dừng vở kịch ấy lại để quay về lập gia đình thật sự. “Mình đã suy nghĩ kỹ rồi, chúng ta sẽ chẳng thể đi đến đâu với thân phận này. Mình sẽ cưới một người muốn cưới mình, mình sẽ cố gắng yêu thương họ, để mà có một đứa con, chứ… đời dài lắm Du à, một mình đi không hết nổi đâu”. Thế rồi mọi chuyện kết thúc.
Trời vào mùa mưa bão, một chuỗi ngày tầm tã. Dẫu rằng tôi mừng vì cô bạn cũng nhận ra được điều tương tự như tôi đã từng thấy, nhưng vì bấy lâu nay mình xuất hiện trong mắt mọi người là một người cũng bình thường như họ, có đôi có bạn, giờ bỗng bơ vơ trở lại, nên cú quay đầu của cô bạn cũng khiến tôi hơi chơi vơi. Ngồi trong tiệm ngó màn mưa giăng trắng trời, mường tượng ra viễn cảnh tương lai của mình một ngày nào đó khi mà ba mẹ không còn, em gái ở bên chồng, còn mỗi mình lúc thúc trong tiệm, tôi bắt đầu thấy đó đáng sợ thật chứ không đùa. Cô bạn bảo tôi hãy nghĩ về điều ấy, chuyện đời dài ấy. Thật ra tôi nghĩ miết ấy chứ, nhưng tôi sợ mình không đủ khả năng để nuôi dưỡng một cuộc đời. Chẳng thà tôi là phụ nữ như cô thì dễ.
Những lúc ấy tôi hay nhớ tới Vĩnh, hẳn là nó cũng lủi thủi trong xưởng mộc một mình. Kể ra hoàn cảnh nó còn đơn chiếc hơn tôi, nhưng sao tôi không thấy nó có vẻ gì là sầu thảm. Ở nó có một sự vô tư nào đó mà thoạt trông khó thấy và cái này thì không có trước lúc nó “ẩn cư”. Thậm chí là kể từ lúc đi bờ hồ về, Vĩnh cứ hay nói về cái chết khiến tôi hoang mang vô cùng: nào là muốn tìm một chỗ mà tại đó người ta có thể chết bất cứ lúc nào, nào là một ý nghĩa chấm dứt mọi ý nghĩa… Và nó thường u uất. Thế rồi sau một tháng biến mất và xuất hiện trở lại thì đổi khác, nó thôi lải nhải những chuyện đó nữa và thần sắc cũng tươi sáng hơn. Tôi thật sự không hiểu nổi tâm tư của Vĩnh, nhưng kệ, miễn nó thôi găm ý nghĩ của mình vào chỗ chết là tôi nghe khỏe rồi.
Mảnh đất tôi chuẩn bị cho Vĩnh cũng xong xuôi, cũng tiêu hết một khúc tiền trong tài khoản mà tôi phải nói giấu bớt để gia đình không nói tôi dại. Song dại cũng có cái hạnh phúc của dại mà khôn quá không hiểu được đâu. Đó là hạnh phúc của sự cho đi, tôi thì đâu có mấy ai để được dịp làm việc đó.
Một chiều nọ, Vĩnh bỗng gọi điện cho tôi, hỏi tối nay rảnh không sang nhà nó chơi. Vĩnh bắt một cái thang kéo tôi lên nóc nhà. Ngồi ở trên đó là ngay dưới tán lá của cây so rô, cùng với một ít bánh nước, chúng tôi nhìn trăng mười sáu vừa lên đằng chân trời. Bấy giờ tôi mới kể về vở kịch của mình. Vĩnh cười châm biếm:
- Sao người ta luôn phải cần có cái gì đó để sống nhỉ? Sự nghiệp, thành tựu, tình yêu, gia đình, con cái…
- Không có gì làm sao sống?
- Ờ, ra vậy…
- Mày muốn nói cái gì?
- Chỉ là tao thắc mắc… có thể chăng người ta không cần cái gì làm chỗ dựa hết?
- Tao chưa nghĩ tới chuyện đó. Trừ phi phế đời đi tu, chứ nếu còn phải bon chen với đời, không có chỗ dựa thì mệt lắm.
- Đúng đúng…
- Còn mày thì sao?
- Hả? Tao làm sao?
- Hiện giờ mày như thế nào? Có dự định gì? Có niềm vui gì không? Mày không định tìm ai đó để quen sao?
- Tao có mày rồi mà.
- Ý mày là sao?
- Mày giữ trái tim của tao nhé!
- Hả?
- Tao không lặp lại đâu. Chịu không?
- Ờ, nếu đó là điều mày muốn.
Tôi đã không nói được gì nhiều, vì bất ngờ. Tôi cũng không muốn nghĩ nữa, vì tôi đã nghĩ quá nhiều rồi. Chúng tôi dành thời gian còn lại của đêm đó để ngồi yên lặng dưới bóng cây so rô. Tàn lá của nó gần đến với tay là có thể chạm được. Khi trăng lên đã lên cao, có gió, ánh trăng soi qua tán lá xuống mái nhà làm thành một vũng sáng lao xao như hoa rơi. Vĩnh nói cái cây này có hoa, nhưng chẳng biết bao giờ và ai có đủ duyên để thấy. Đó là loài cây chỉ ra hoa khi đã tích lũy đủ những thương tổn mà cuộc đời đã gây ra cho nó, có thể là cưa cắt, thiêu đốt, lụt ngập hay trúng độc. Lúc đó tôi tự hỏi không biết hoa của nó sẽ ra làm sao.
Thế rồi đêm hôm đó tôi về ngủ thấy cây so rô nhà Vĩnh ra hoa. Nhưng khung cảnh trong mơ vẽ nó không nở trong một ngày bình thường. Mà là trong biển lửa. Xưởng mộc cháy phực phừng. Cây so rô đứng sừng sững trong ánh lửa sáng chói, cánh hoa lạ lùng không cháy rã rụi mà đỏ như than, từng đám tàn tro theo ngọn khói thổi bay vút lên bầu trời. Tôi đứng bên đường nhìn mãi.
Vài ngày sau đó tôi bận việc không liên lạc với Vĩnh. Rồi một sáng nọ nghe dân tình đồn có vụ cháy bên xưởng mộc, đã mấy hôm rồi, tôi lạnh người bỏ mặc tiệm bánh chạy sang, thấy căn nhà tường thì còn đứng đó, nám đen, nhưng cả cái xưởng mộc thì chỉ còn là một bãi tro than hoang tàn. Người ta nói nguyên nhân là do chập điện nửa đêm không ai hay...
☸
Giờ đây, mảnh đất từng là cái nhà xưởng chỉ còn là một bãi xà bần lẫn trong cỏ dại. Nghĩ cũng hay, chỉ trong một đêm mà mọi thứ đã được dọn sạch trả lại miếng đất rộng rinh cho những người đến đòi. Chỉ cái cây so rô huyền thoại này là vẫn còn đứng vững. Tôi không biết cái cây này có từng ra hoa hay không nhưng ít nhất tôi đã thấy trong giấc mơ đó, cái giấc mơ nhiều năm rồi vẫn còn ám ảnh.
“Vậy là tao cũng có duyên để thấy hoa nở, phải không mày? Vậy là mày đã đi được đến chỗ không còn gì có thể níu chân mày nữa. Kể cả tao, có phải không? Tao không biết bao giờ mình mới tự bay được như mày, mới vững chãi được như mày. Tao vẫn còn loay hoay với đời mình, đôi chân tao vẫn còn yếu lắm. Nhưng cũng cảm ơn mày, vì đã cho tao một manh mối, về việc làm sao mà một người có thể không cần dựa dẫm vào bất kỳ điều gì. Và mày không nói là vì điều này chỉ thật sự có giá trị khi người ta tự thân tìm thấy. Phải không? Cơ mà mày chơi cũng ác thật đó, Vĩnh chết tiệt! Tao nào có ngờ đêm đó mày nói muốn tao giữ trái tim của mày là nói đúng nghĩa đen đâu…”
Cho nên tôi đã không lường trước được cái chới với vào giây phút nhà hỏa táng trao Vĩnh lại cho tôi. Lúc ấy chỉ còn là một trái tim nguyên vẹn.
Bình luận
Chưa có bình luận