Truyện ngắn: Màu lá trên vai
Tác giả: Đặng Phúc Nhất
Trời tang tảng sáng, đất còn bốc hơi lạnh, Hòa ôm súng, mắt đăm đăm nhìn ra bốn phía mờ mịt sương, thấp thoáng vài ba tán lá thốt nốt cô đơn đứng im lìm bên cạnh mấy đám cây thấp cao xen lẫn.
Nó về đây làm lính biên phòng đã mấy thang nay, vẫn không sao quen được thời tiết xứ này. Ngày thì nắng khét da, bụi đỏ mù trời, đêm thì rét buốt, hơi lạnh thấm vào tận xương. Có những hôm mặt trời lên, bốn bề vẫn còn mờ mịt. Vừa đỏ vừa trắng, không biết là sương hay bụi.
Bữa nay, cũng là một ngày như vậy. Đã hơn sáu giờ sáng, đám con nít áo trắng quần xanh, vai quàng khăn đỏ líu ra líu ríu vác cặp tới trường. Đứa nào khá thì ba mẹ chở, đứa nào khó thì đạp xe èng èng. Tụi nó kêu nhau, giỡn nhau, ồn ĩ. Có đứa láu cá, biết Hòa đang trực không được đi đâu nên chạy qua chạy lại trước mặt nó như trêu ngươi, nhảy tới nhảy lui tới khi bị bạn hối đi nhanh để trễ giờ vô lớp, nó mới quay lại lè lưỡi chọc thêm cái nữa rồi mới chịu “dọt”.
Mấy lần như vậy, Hòa quen rồi, chỉ thấy tức cười chứ không khó chịu. Bầu không khí rộn ràng mỗi sáng này, dường như phần nào xua đi cái giá lạnh vùng biên, để tâm hồn người lính trẻ xa nhà phần nào vơi đi nỗi nhớ quê khắc khoải. Chỉ cách đây ít năm, nó cũng y như tụi nhóc này chứ đâu có khác gì.
Nắng lên, sương tan dần, từ đằng xa có một dáng người lòm khòm chầm chậm đi tới. Là một bà già. Vóc người không cao, tóc trên đầu đã bạc gần hết, chỉ còn lơ thơ mấy sợi như râu bắp. Bà ấy ốm yếu, lững thững bước thực chậm, mắt nheo nheo, rõ ràng là không còn tỏ nhưng không hiểu sao Hòa lại thấy ánh nhìn của bà sáng lắm, cứ ngời ngời như pháo hoa bắn mừng ngày Quốc Khánh.
Từ khi thấy bà đằng xa, Hòa đã ló đầu ra nhìn, không hiểu vì cái gì mà những bước chân tưởng chừng chậm rãi thong dong đó lại làm nó chú ý. Đến chừng thực sự đối diện với bà, Hòa lại luống cuống, cứ gãi đầu, gãi tai, miệng giật giật, không biết nên chào hay ngó lơ.
- Ui! Nội! Mới sáng sớm đi đâu đây? - Bỗng dưng, anh Bình, tiểu đội trưởng ở trong đồn đi ra nhìn thấy lớn giọng hỏi thăm.
Nghe giọng điệu thân thiết của ảnh, chắc cũng không xa lạ gì với “nội”. Đáp lại sự nhiệt tình này, nội chỉ tặc lưỡi, nheo mắt, trả lời trống không:
- Tao đi bán vé số, chứ đi đâu, không thấy hay sao còn hỏi?
Thấy nội làm như bực bội, anh Bình cười xòa, chạy ra dìu nội, hạ giọng nói mát, biểu nội về nghỉ, chớ giờ nắng lên cao, nóng lắm rồi. Nhưng tánh người già, đâu có dễ nghe lời ai. Nội lắc đầu nguầy nguậy, phụng phịu rút tay ra, không cho anh Bình nắm, nói lẫy:
- Nghỉ rồi ai nuôi tao? Nghỉ rồi con tao về lấy tiền đâu cưới vợ? Tao còn cả đống đây chèn. - nội vừa nói, vừa chìa xấm vé số còn non trăm tờ.
Anh Bình nhăn răng cười, lật đật cầm lấy, đi một vòng đem chia ra, mấy anh em trong chốt người phụ ít tờ. Loáng cái đã hết sạch, kiểm đếm xong xuôi, ảnh lại đưa tiền cho nội. Nội cau mày, mấy nếp nhăn xô nhau như sóng lúa, tiền cầm ở trong tay rồi mà coi bộ bà cũng không vui mấy. Hòa đứng gần, còn nghe được tiếng càu nhàu:
- Tổ cha! Sáng sớm mới lãnh được có mấy tờ, tính đi vòng vòng cho vui, bây mua hết rồi tao lấy gì đi nữa?
Mấy anh em lại cười, lấy tay quạt nịnh, dìu nội tới ngồi dưới bóng cây, chỗ có gió đồng thổi lên mát rượi. Anh Bình còn nói tí đổi ca xong sẽ lấy xe chở nội về. Nói tới vậy rồi mà nội còn không chịu, cứ dậm chân quơ tay, trách mấy anh em chê mình già, mình xấu. Ảnh dỗ nội, nói nội đẹp như con gái mười tám chớ đâu có già, nội trề môi, nạt “cha mày”, mà tiếng cứ ri ri như tiếng dế.
Nạt xong, nội mới chịu cười, gương mặt đã đậm màu tháng năm đó trong thoáng chốc dường như càng thêm bừng sáng. Hồi xưa, hồi còn trẻ, chắc nội đẹp dữ thần. Rồi, bỗng, nội trông ra xa, Hòa nhìn theo ánh mắt, cùng hướng về nơi có những thủa ruộng lúa đã chín vàng rụm, xen lẫn với màu bờ cỏ xanh rì xuyên qua mấy cây thốt nốt cao lêu nghêu mọc rời rạc, trải dài đến hút tầm mắt. Sao… Người nội nhỏ mà ánh mắt nội mênh mông quá.
Nội cứ nhìn như vậy, Hòa cứ đứng như vậy, cạnh nội, cho tới khi nó hết ca, nội cũng về. Không cho ai theo, một mình, thong thả đi dưới cái nắng vùng biên giới Tây Nam nóng rực. Sao… Người nội nhỏ mà bước chân nội vững vàng quá.
Hỏi anh Bình, Hòa mới biết, nội là vợ liệt sĩ thời kháng Mỹ, là mẹ liệt sĩ trong Chiến tranh Biên giới Tây Nam, là bà nội của cô giáo Thắng, cô đó Hòa biết, là cô giáo về hưu rồi vẫn hay kèm cặp cho mấy đứa con nít nhà nghèo. Cô với nội không phải bà cháu ruột thịt, họ là hai con người đã từng đi qua chiến tranh, đã từng bị chiến tranh cướp đoạt hết thảy những người mình yêu quý, họ gặp nhau, yêu thương nhau, bấu víu vào nhau như đám lục bình lạc lõng cố giữ cành cỏ vươn ra từ bờ, chỉ để tìm một nơi yên bình sau sóng gió.
Chiến tranh? Những người sinh ra trong thời bình, giống như Hòa chỉ biết về chiến tranh qua phim ảnh, qua sách vở, qua những con số thống kê và những câu chuyện kể của người đi trước. Đối với nó, sự tàn khốc và đau thương của chiến tranh, chỉ có thể hiện hữu trong trí tưởng tượng. Dù là lính biên phòng, nhưng sinh ra và lớn lên trong thời bình, nó đâu thể hiểu được chiến tranh, và nó, và những người đồng đội, và những người cựu chiến binh, và những người đã ngã xuống, chắc chắn và nhất định cũng mong rằng đất nước mình mãi mãi, mãi mãi, không bao giờ còn phải đi qua chiến tranh.
Còn nội, nội là người thực sự nhìn thấy chiến tranh, đi qua chiến tranh và sống trong chiến tranh. Nội trông nhỏ bé và yếu ớt quá, nội đã sống như thế nào qua những ngày tháng đó? Khi những người thân yêu ngã xuống, nội nghĩ gì? Nội có thương chồng, thương con nội nhiều không? Nội sẽ đau đớn bi ai hay tự hào là một nhân chứng sống, là một người góp phần viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc, của bộ đội biên phòng?
Hòa nghĩ mãi, nhưng dù sau này gặp nội thêm nhiều lần nữa, nó cũng không dám hỏi, nó sợ nội buồn. Mỗi lần đứng chốt sáng, nó lại thấy nội, nội vẫn vậy, lững thững, chậm chạp cầm xấp vé số đi trên đường. Bán vé số, mà nội không có mời ai, người ta tự năn nỉ nội, để mua cho nội về sớm, để nghe nội càu nhàu, nội càu nhàu, mà ai cũng cười, còn chọc là bữa nào không nghe nội chửi, ăn cơm không ngon.
Đôi khi, nội còn xách theo mấy kí gạo, mấy con khô với mấy chục hột vịt đi te te tới đưa cho mấy anh em trong chốt. Nếu không chịu nhận hay quở nội xách nặng, nội sẽ hờn:
- Tao xách mấy chục kí gạo băng đường rừng còn được, chứ bi nhiêu đâu có nhằm nhò, bây nói tao già chứ gì? Cái này, tao cho cháu tao, chứ đâu có cho bây?
Cháu của nội, Hòa nghĩ, chắc là thằng nhỏ đen thủi đen thui đang được nhận làm “em nuôi” nuôi ở trong đồn. Nhưng sau này hỏi lại, mới biết, cả cái Đồn Biên Phòng Vàm Trảng Trâu này, đều là cháu của nội. Đứa nào không nhận, là nội giận, mà đứa nào làm nội giận là đứa đó bị mấy anh gõ cho te đầu.
Một bữa, sau khi đổi ca gác, Hòa giành đưa nội về. Nội biểu khỏi, nhưng nó một hai đòi theo cho được, nội cũng kệ, cứ te te mà đi, còn Hòa đạp xe dí theo ngay sau gót, có năn nỉ cỡ nào nội cũng không chịu lên cho nó chở. Hai người một già một trẻ, cứ vậy mà đi.
Tưởng nội già, dè đâu đi nhanh hơn cả nó, tưởng nhà nội gần, dè đâu đi cũng xa, phải qua mấy đoạn bờ ruộng, tắt ngang lối mòn ẩn dưới đám cao su, quanh thêm vài khúc cua đất đỏ mới tới được nhà nội. Nói là đưa nội về chứ thực ra, toàn nội dắt nó đi, đi qua những con đường mà nó chưa từng được biết.
Người nội nhỏ, nhà nội cũng nhỏ, đơn sơ tường gạch mái tôn, sơn màu vàng nhàn nhạt nằm heo hút giữa một vườn xoài già thưa trái, cạnh bên một con rạch nhỏ nước đỏ chảy li ri có mấy ngọn rau muống tím dập dờn, hoa cánh mỏng nở xòe ra như cánh bướm.
Nội biểu Hòa vô nhà chơi, nội đi lấy nước. Đặt chân lên những tấm gạch Tàu mát rượi, nó chọn một cái ghế nhỏ đặt ở góc, nghiêm chỉnh ngồi xuống, vô thức quét mắt nhìn quanh. Nhà không có đồ đạc gì quý giá, chỉ có một bộ bàn ghế nó đang ngồi, một cái li-quăng, một cái tủ thờ chỉ có lư, có hoa, không tranh không ảnh. Ngoài cửa sổ, trong miếng vườn cỏ dại lưa thưa, có nấm mồ lặng thinh nằm đó, im lìm như tháng năm…
“Chồng nội về rồi, nội vẫn còn chờ con, chờ chú Chiến…” - giọng kể hiền từ của anh Bình bỗng đâu vẳng lên trong trí nhớ.
Hòa nghe tim mình xao động, nó thoáng nhìn xuống bếp, nơi có một ngọn lửa vừa bùng lên đang cháy phừng phừng. Nó siết chặt nắm tay, không dám hứa thành lời nhưng trong lòng thầm nguyện, nhất định sẽ có ngày nó đưa chú Chiến về với nội…
Từng ngày theo gió trôi xuôi, những lúc đi tuần, những ngày phép, Hòa và những người đồng đội có cùng chí hướng gần như đã lục tung cánh rừng, đào sạch gò đất và mò mẫm hết những dòng suối con mương, nhưng gần như vô ích. Chỉ còn vài tháng, nó sẽ xuất ngũ, lời hứa với nội, nó vẫn canh cánh trong lòng, nó muốn làm, mà không sao làm nổi. Đất xứ này bạt ngàn quá, nước xứ này mênh mông quá, nó biết tìm chú ở đâu bây giờ?
Nhiều đêm ngước mắt nhìn trời, Hòa chỉ mong nhanh nhanh tìm được chú. Tiếc là… chú cứ như những vì sao kia, cứ sáng ngời ngời, cứ thấy ngay trước mắt mà không sao chạm tới được, cứ làm người ta… vừa thương vừa quý mà vừa xót lại vừa đau.
Rồi trong một sáng mờ mờ sương sớm, dân đi rừng báo là đào được hài cốt, nghi là của liệt sĩ mình. Hòa với anh Bình, cùng chỉ huy và mấy anh em khác trong đồn lập tức chạy đến nơi, chỗ họ tới nằm lửng lơ giữa một con dốc cây cối um tùm, lá khô bao năm phủ chen kín kẽ. Đợt này do dân đi đào tổ mối, vô tình phát hiện ra.
Người nằm đó không biết đã bấy nhiêu lâu, máu xương đã sắp tan thành đất, chỉ còn lại một ít cùng cái bi-đông, khẩu AK đã hoen gỉ. Chỉ huy ra lệnh đào quanh khu vực, lại tìm được thêm sáu “người”. Nhìn những di vật còn để lại, không khó để đoán được đây đúng là hài cốt liệt sĩ, nhưng họ là ai, tên tuổi là gì, có chú Chiến con của nội trong số họ không, Hòa không thể nào biết được.
Khi anh em thu dọn chuẩn bị quay về, mưa rừng bỗng đổ xuống thực dày, làm trôi thêm đất đá. Ai nấy hối hả chạy trốn mưa, bỗng Hòa khựng lại, cúi xuống, moi lớp đất đỏ au rồi lấy lên một cây viết máy, mượn dòng nước trôi xuôi rửa sạch, thân viết lộ ra hai chữ khắc tay nét thảo. Tim Hòa run lên, từng tiếng gõ thình thình vang trong lồng ngực.
Trong cơn mưa ướt đẫm đất trời vùng biên, còn bao nhiêu người cả đêm thao thức…
Mấy nay nội đau, không đi ra ngoài chốt chơi với mấy đứa ở ngoải được, ở nhà buồn nên nội cứ than thở hoài, đêm cũng ngủ không được, nằm khóc thút thít. Trưa nóng hầm hầm, đêm lại lạnh rát da, cô Thắng ngồi canh cho nội ngủ mà không khỏi thở dài, thoáng nghĩ phải chi mà hồi xưa mình cãi chú, đi học làm y sĩ bác sĩ, chắc giờ nội cũng không phải khổ vầy. Đời nội khổ nhiều, không biết tới chừng nào mới hết.
Mới hồi chiều đây, cô đi chợ về, nội líu ríu kể chuyện “mấy đứa ở đồn vô thăm”, thấy nội vui, cô cũng mừng trong bụng, vừa chải tóc cho bà, vừa lén giấu mớ tóc rụng rối nùi trên tay. Nội vẫn gõ lốc cốc lên ghế, lầm thầm hát mấy bài đã xa xưa lâu lắm, thi thoảng lại nhắc tới chú, ngoại tưởng chú còn ở trên đời. Nội dần lẫn rồi, đã quên nhiều chuyện, đã quên đi những năm dài đau thương khói lửa, cũng quên mình đã già. Chỉ nhớ chú, nhưng là chỉ nhớ chú đã về từ hồi giải phóng chứ nào nhớ chú đã xa.
Cứ đôi ba bữa, nội lại hỏi cô, chú Chiến của mày đi đâu rồi. Chú Chiến đi đâu? Chú Chiến đi đánh giặc. Đánh giặc ở đâu? Đánh giặc biên giới Tây Nam. Khi nào về? Khi… hòa bình… Hòa bình rồi, sao còn chưa thấy? Sắp rồi, chú sắp về rồi, nội. Những câu này, bao nhiêu năm qua, nội đã hỏi và cô đã trả lời, không biết bao nhiêu lần, cũng chẳng biết đến khi nào nó mới thành sự thật?
Cô Thắng cũng nhớ chú, cũng thương chú nhưng không dám nhắc, chỉ đợi đến những đêm thực khuya, nội đã ngủ yên rồi cô mới dám nghĩ, mới dám nhắc thầm trong lòng mình. Đêm nay mưa lớn quá, không biết chú ở rừng có lạnh không? Nhìn ngọn lửa đèn dầu hắt hiu hất lên tường thứ ánh sáng lờ mờ màu cam đỏ, không biết nghĩ đến điều gì, cô khe khẽ hít một hơi sâu, rồi khe khẽ thở dài, khe khẽ giấu đi nước mắt ầng ật và sóng mũi cay xè như quẹt ớt.
Trời còn chưa sáng, cô đã trở mình ngồi dậy, chân bước thật nhẹ để không làm nội giật mình. Châm nén nhang đốt lên bàn thờ, làn khói trắng mỏng manh chờn vờn trong hơi khuya man mát làm cô nhớ chú thêm nhiều, nhiều dữ lắm. Người gì đâu, gặp gỡ có mấy năm thôi mà xa cách mấy chục năm rồi, vẫn không tài nào quên được. Nhớ chú lắm, nhớ nhiều lắm. Mà giờ nghĩ lại, giọng chú ra làm sao, mặt mũi chú thế nào, cô chỉ còn thấy lờ mờ như trong sương bụi. Ai biểu bao nhiêu đó năm, mà chú đi không chịu về?
Bầy gà nhà nuôi đã xuống chuồng, quang quác đòi ăn. Cô Thắng ôm thúng gạo với cám, vừa mở cửa đã thấy mấy anh bộ đội trẻ măng mang quân hàm xanh, họ đứng ngay trước cửa, nghiêm cẩn ôm một cái hộc nhỏ bọc trong quốc kì, bên trên đặt một cây bút mực đã phai màu. Trong thấp thoáng sương mù, cô như thấy lại hình bóng xưa cũ. Rõ ràng. Đang mỉm cười. Vẫy tay và bước đến thực gần, thực gần, thực chậm… Người đâu mà… cứ trẻ hoài vậy.
Cô nghe ngực mình siết lại…, trước mắt bỗng mờ nhòe, bàn tay run rẩy đánh rớt cả thúng, cô chạy như bay về phía trước, hai tay dang ra rồi lại khép, chân trần bấu chặt từng ngón, rưng rưng lướt qua hình bóng hư ảo, những ngón tay đậm màu thời gian giàn giụa lướt qua những vết khắc đã nhạt màu trên thân viết. Chiến Thắng. Chiến Thắng. Chiến Thắng khắc lối chữ thảo… đây là thứ mà ngày xưa cô Thắng tặng chú Chiến trước khi lên đường vô Thị xã học, vậy là… đúng chú rồi.
- Nội ơi! Chú về rồi… Chú về rồi! Nội ơi…
Cô quay đầu lao vào nhà, cố ý cất tiếng thật cao, nhưng chỉ nghe giọng mình vỡ vụn.
Không biết từ lúc nào, nội đã thức dậy, ngồi nghiêm chỉnh trên li-quăng, đôi mắt mờ đục của tuổi già giờ phút này bỗng sáng lên, tỏ tường như cách đây mấy chục năm về trước. Đôi dòng nước mắt chậm rãi lăn dài trên má, nội đưa hai tay ôm chú vào lòng, ve vuốt từng đường nét ẩn dưới quốc kỳ:
- Thằng Chiến, về rồi đó hen? Để má, dọn cơm cho mày… - nội khe khẽ vỗ “chú”, thủ thỉ - Hồi đó mới sanh cũng bi lớn vầy, nuôi nhiêu đó năm, đi nhiêu đó năm về, cũng có bi lớn.
Nói xong, nội đi xuống bếp, nội nấu cơm, nội dọn lên, nội đốt nhang cho chú, nội nói chuyện với ông. Trong một thoáng, cô Thắng thấy như một gia đình ba người đầm ấm ngồi đó, cùng nhau, chắc là giống hệt những ngày xa xưa đó…
Cô không làm phiền nội, quay ra tiễn mấy chú lính trẻ về đơn vị. Họ đi xa rồi. Cô vẫn thẩn thờ, ngơ ngác nhìn theo, nắng trưa ánh trên quân hàm màu lá trên vai áo họ đến khi khuất hẳn. Ngày chia tay năm đó, áo chú cũng một màu xanh như lá biếc.
Đằng đám ruộng mạ xanh mướt xa xa, có mấy con cò trắng chập chờn bay, cánh vỗ ngược gió, vút vào trong yên ả…
Bình luận
Chưa có bình luận