Mệ ơi, phần con bát nhút mít, hấy!


 

 

Truyện ngắn: Mệ ơi, phần con bát nhút mít, hấy!

Tác giả: Đạm Yên Sơ Vũ

“Mệ ơi!”

Người phụ nữ đương cúi lom khom hái ngọn rau lang trong mảnh vườn nhỏ bên hông chái nhà lá, chợt nghe ai gọi mình, bàn tay nhăn nheo lốm đốm đồi mồi không đúng với cái tuổi vốn dĩ bỗng run rẩy giật thót. Bà vất vội mớ ngọn lang đang túm trong lòng bàn tay, loạng choạng đứng dậy, nhưng cái lưng còng cùng đôi đầu gối mỏi mệt vết tháng năm dường như chẳng muốn cho bà thẳng người, cả thân hình nhỏ thó ngã lăn quay giữa bụi rau lang. Bà chẳng bận tâm đến đất cát rơm rạ vương khắp đầu cổ tóc tai mình, quyết chí bò lồm cồm bằng cả hai tay rồi chống gối đứng dậy. Bà lò dò bước ngắn bước dài chạy ra cổng, thấy bóng một người thanh niên ngược sáng đứng giữa cổng tầm vông, chợt bà khựng lại.

Những ngón tay bè bè đen xì nhựa rau lang túm vội vạt áo cánh giơ lên lau đôi mắt kèm nhèm, hấp háy liên tục cho rõ ràng, bà run giọng hỏi dò.

“Đứa mô rứa hè? Thằng Lợi hở mi?”

Bóng thanh niên mờ mờ nhòe nhòe ấy chẳng trả lời, vẫn cứ đứng im lặng trong quầng sáng. Bà túm chặt vạt áo nâu sồng, hơi dợm một bước tiến về trước xong lại lùi hai bước về sau, cuối cùng bằng một chuyển động giật cục nhưng quyết đoán bà lao thẳng về cổng, về phía ánh sáng rực rỡ đang bao quanh người thanh niên kia.

“Tạch! Tạch! Tạch!”

Tiếng máy bay ầm ầm lượn trên nóc hầm đất, âm thanh cánh quạt xoay vù vù như gần mà lại như xa chẳng thể phân biệt nổi, bởi bị nhiễu loạn vì tiếng súng máy, âm bom mìn, giọng hô hào cùng ti tỉ âm thanh của chiến tranh khác.

Cậu thanh niên áp cả thân người vào nền đất ẩm, từng dòng mồ hôi chảy dọc thái dương xuống cằm, hòa chung với máu loãng từ những vết xước do mảnh bom lạc, khiến thịt da nhói thốn râm ran từng đợt. Thân hình còm nhom bọc trong áo quần quá khổ màu xanh lính, khiến cậu như thể một đứa trẻ con chưa lớn học đòi mặc đồ của cha.

Mà đúng là thế thật, cậu thanh niên Hoàng Thành Thắng Lợi ấy mới chỉ mười tám tuổi xanh, đã hết trẻ con nhưng vẫn chưa thành người lớn thực thụ.

Báng súng kim loại nóng rực sau một loạt bắn liên tục tì vào bờ ngực gầy của Lợi, cậu vừa thở dốc vừa run bàn tay mò mẫm thay đạn, đồng đội bên cạnh vẫn bắn từng hồi liên tục vào kẻ thù, cứ một cậu lú lên là một cậu thụt xuống nghỉ ngơi hoặc thay đạn.

Mùi khói lửa, mùi thuốc súng, mùi những cơ thể hừng hực thanh xuân đang dần lạnh toát xen kẻ với mùi đất bùn bị cày xới, mùi nước sông vẩn đục và mùi cỏ non bị đạp nát.

Tất cả trộn xoáy hết vào nhau tới mức ong ong trong những khối óc đã vốn sẵn trăm mối bộn bề.

Lợi hấp háy mắt liên tục vì mồ hôi, bàn tay vẫn lập cập thay đạn nhưng làm mãi chẳng xong. Cậu bặm môi nâng cánh tay quẹt ngang mắt cho bớt cay, hít hơi lên hai lần để tỉnh táo rồi vẫn cương quyết làm cho xong. Khi băng đạn vừa khớp vào vị trí, thì tiếng hét đứt gãy vang lên cạnh bên, cậu đồng đội vừa nhú lên kia đã ngã vật ra nền đất lộn xộn vết bùn và máu.

Đôi mắt mở to trừng trừng in sâu bầu trời tổ quốc xanh trong, chút tàn dư sự sống ít ỏi cũng chỉ đủ để cậu ta run rẩy áp bàn tay bết máu lên ngực trái thoi thóp.

Tiếng gọi “Má ơi!” còn bỏ ngỏ trên cánh môi khô nứt.

Tiếng gọi của đứa trẻ mới hôm nao hãy còn làm nũng bên mẹ, bởi thế lúc tử vong cận kề buột miệng thoát ra, trong sự khao khát được một lần nữa áp vào bầu ngực ấm, vòng tay thơm của gia đình.

Lợi trợn mắt nhìn đăm đăm khóe miệng ấy giây lát, chợt bặm môi cắn răng nép sát vào thành hầm, lú đầu lên rồi giương súng nheo mắt nhắm kĩ, lại nả liên tục vào chiếc xe tăng đang ầm ầm lao tới.

Âm thanh súng đạn hòa cùng tiếng thét gào khàn giọng của cậu thanh niên, tiếng thét thay lời điếu văn cho đồng đội.

Bài điếu văn trúc trắc của một nông dân, ngâm tặng cho một sinh viên năm cuối Trường quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn. Tiếc thương cho người đồng đội chưa thể tự mình ca vang khúc khải hoàn, trong ngày vui thống nhất dân tộc, như cậu sinh viên ấy vẫn hằng mong mỏi.

Cậu thanh niên âm nhạc trắng trẻo như công tử bột người miền Nam đó, mới chập choạng hôm qua còn ngồi bó gối cạnh hầm trú, vần vò cái khăn mùi xoa thêu huệ trắng đã ố ngập sắc bùn cùng máu khô, thỏ thẻ hỏi đồng đội.

“Lợi nè, cưng có món gì đặc biệt thích ăn hông?”

Chất giọng cậu ta ngọt ngọt thanh thanh, rót vào tai người ta cái nền giọng nhỏ nhẹ tươi vui, tựa như ly nước mía ép cùng thơm tươi rồi còn ướp thêm một lớp chanh muối sánh quyện, trôi tuồn tuột mát lạnh khoan khoái cả thân người, ngọt lìm lịm khắp vành tai người nghe.

Cái đầu nửa dài nửa trụi lởm chởm như chó gặm của Lợi đang chúi xuống, để tiện cho anh nuôi cạo ngắn nên cậu không ngước lên, chỉ cất giọng lúng búng trong cổ họng.

“Trốc em có bằng nớ, anh cạo như ri còn chi tóc em nữa tề.”

Anh nuôi nghe Lợi nói, không trả lời mà càng nắm chặt ót cậu hơn, cạo sồn sột cho hết mớ tóc rối bù còn lại. Lợi vừa kêu oác oác vừa trả lời cậu sinh viên âm nhạc.

“Em á, nhà em nghèo, cứ có cấy chi bỏ bụng cho no là được anh nạ, ăn cấy chi em cũng thích hết tề. Còn anh?”

“Anh nhớ chén cơm nóng rắc đường, nén xuống xong đợi cho đường hơi chảy ra phủ khắp mặt cơm, húp một ngụm nước đường rồi múc một miếng cơm lên ăn, mềm mềm dẻo dẻo ngọt ngọt, như bánh vậy đó.”

Cậu thanh niên trải rộng tấm khăn mùi xoa ra úp cả mặt vào hít sâu, thế nhưng hư thối chiến tranh đã nhuộm đẫm mảnh khăn ấy trong mùi khổ đau, chứ nào còn vương lại chút gì hương xưa vị cũ, hẳn cậu ta chỉ đang ngửi mùi kỉ niệm trong tiềm thức của những ngày ấm êm mà thôi. Hít xong, cậu thanh niên âm nhạc gấp gọn lại tấm khăn, nhét vào túi áo ngay ngực trái, áp hai bàn tay đè chặt lên đó, nhắm mắt ngửa lưng ra nền đất hầm trú, lại thì thầm se sẽ, như câu hò điệu lý bên dòng kênh dưới nhành so đũa trắng phau.

“Đường là thứ nhu yếu phẩm quý giá, má anh chỉ dám dùng nhún nhít từng chút, chẳng biết nghe đâu một ông đốc-tờ bảo rằng ấy là thứ cần cho trí não và cơ bắp. Thế nên mỗi ngày má dành ra một nhúm từ phần của má, ém kĩ trong tủ quần áo để dành cho anh, dành cho đứa con mồ côi tía từ khi chưa lọt lòng, dành cho đứa con út ít trong nhà.”

Cạo xong anh nuôi đá Lợi sang bên, túm một cậu binh nhỏ thó khác tiếp tục cạo, vừa cạo anh vừa lầm bầm lầu bầu.

“Trời nắng thì bốc khói cả nước miếng trong mồm. Trời mưa thì tràn trề lênh láng. Nước xối xuống dưới, hầm ngập lên trên, chỗ chó nào cũng lềnh phềnh thối hoắc!”

Anh nuôi khẽ vạch mái tóc bết dính của cậu binh, thấy một ổ mủ đã bắt đầu hoại tử, ngoe nguẩy một con giòi no mồi trắng phếu mập mạp, anh lặng lẽ phủi con giòi ấy đi, tiếp tục cạo quanh.

“Thằng sống tranh chỗ nằm với đứa chết, ruồi nhặng giòi bọ no nê nên béo trắng trùng trục, người thì lại lọm khọm thiếu ăn như mấy con chó đói xà mâu, dưới thì hắc lào, trên thì chấy rận. Tao mà gặp đứa giặc nào, tao phun vào mặt đứa đó cho thỏa, tụi nó càn bom nổ hỏng quân nhu nên cả tuần nay tao không đánh răng tắm giặt gì rồi, để xem tụi nó có bị nước miếng tao thối chết không!”

Anh quay sang bên nhổ toẹt một ngụm nước miếng. Nói thì nói thế, nhưng vẫn nhẹ tay khi cạo qua những vết ghẻ lở đã mưng mủ tứa máu của cậu binh nhỏ tuổi, đôi lúc anh vừa thổi nhè nhẹ lên vết thương vừa lầm bầm.

“Ngọ ngoạy cái chó gì, im cho tao làm!”

Lợi đứng nhìn cảnh ấy một lúc rồi xoa hai lần lên cái đầu trọc lóc như sư sãi cho rớt hết vụn tóc, cười hềnh hệch lắc lư tới ngồi bệt bên cạnh cậu thanh niên nhạc viện. Cậu sinh viên lại tiếp tục nói nho nhỏ, hát nhè nhẹ câu ru hiền giữa giấc mộng lành, kể với đứa em những chuyện xưa tích cũ nhiệm màu.

“Mỗi khi anh được nghỉ trường về thăm nhà, má lại pha cho ly bình bát dầm hoặc bới chén cơm nóng rồi rắc một lớp đường dày lên, má kê một cái ghế vừa dùng khăn quạt gió vừa cười nhìn anh ăn.”

Cậu ta hơi dừng, làn môi mấp máy trong động tác nhấm nuốt miếng cơm rắc đường vô hình, chẳng biết dòng hồi ức ngọt ngào ấy có còn dư vị nào đọng lại, đủ để cậu nếm chút hương vị xưa cũ hay không. Chốc lát sau cậu lại tiếp tục.

“Nhà anh đông con, nhưng các anh các chị lớn đều đã ra riêng hết từ lâu, thành thử ra má anh cưng anh lắm.”

Trái cổ cậu sinh viên lên xuống liên tục trong nỗ lực ngăn cơn run rẩy chấp chới giữa sóng dữ hồi tưởng.

“Đôi khi có hạt cơm hạt đường rơi ra, má lại nhặt lên nhét miệng ngay… Hức. Như sợ anh ngại, má túm cái khăn rằn che miệng cười móm mém, nói rằng… Hức… Rớt uổng quá chớ má hổng có thèm… Hức, con ăn đi...”

Hàng nước mắt đầy ngập, tràn ra ào ạt từ đôi mi nhắm chặt, kéo hai vệt trắng toát loang lỗ trên khuôn mặt lấm lem bụi đất máu khô.

“Má anh… Má anh chết trên đường đi chợ gánh hàng, trong một trận càn dội bom. Khi ấy anh vẫn còn đang học trên trường, nghe tin lao vội về nhà thì mộ má đã được đắp xong. Xóm giềng đi gom xác kể lại rằng thân má nằm rạp vắt bên gò đất, gói đường bọc kín trong tấm khăn thêu tía anh tặng má hồi cả hai mới quen, thấm ướt máu má đỏ tươi, rồi bị… Hức, bị gót giày tụi lính ngụy đạp qua xéo lại, lăn lóc vào trong bụi dứa dại… Tới… Đen đúa bùn sình.”

Lợi ấp vầng trán rộng lên bờ vai run rẩy của cậu sinh viên, day qua day lại thay lời an ủi, như cách cậu vẫn thường làm với mẹ mình.

Chừng như cái cảnh tượng người má có thể đói khát rách bươm, nhưng quyết dành tất cả mọi ngon ngọt lành lẽ cho cục thịt rớt ra từ thân mình ấy, hiện rõ mồn một trong tâm trí Lợi. Chẳng biết người mệ hiền nơi quê nhà có bình an hay cũng nhiều điều dữ chực chờ nhào bổ vào xâu xé bà, hệt như người má của cậu sinh viên đang rưng rức khóc thương cạnh bên Lợi nữa. Lợi cất giọng nghèn nghẹn.

“Em nhớ nhút mít mệ em mần, nỏ có thứ chi trên đời ngon bằng.”

Tràng tiếng òn ọt vang lên rồi kéo dai dẳng, vọng ra từ cái bụng được siết chặt trong sợi dây dù thay cho dây nịt, bởi không có dây nịt nào siết nổi cái bụng đã sát kẹp sống lưng, Lợi túm quanh lưng quần rồi chống cao hai chân cho dịu đi luồng lạnh đang chạy dọc thân người.

Cơn quặn đau vì đói ăn lẫn với đói nhớ, bầy giun vẫy vùng tìm dưỡng chất giữa cơ thể còm cõi, xoắn thúc vào thành ruột nhói lên thon thót từng đợt tới mức tứa nước mắt.

Đôi mắt Lợi hấp háy liên tục trong những kí ức chói lòa, chẳng biết là ánh chớp nháy của đạn pháo nổ tung trời lúc chập choạng, hay là ánh nắng trưa lấp lóa dưới chái nhà lá đơn sơ nữa.

“Mệ mần chi rứa hè?”

“Mi băm rau lợn xong chưa mà ra đây?”

“Rồi mà mệ, cả đống kia đây thây.”

“Mi mần cấy chi cũng ải ải, nhác hơn tru.” Người phụ nữ vẫn cúi đầu gọt vỏ quả mít non, chẳng thèm ngẩng đầu lên nhìn. “Tau mần nhút mít.”

“Mệ cứ rầy con rứa hè.”

“Tau chộ răng nói rứa.” 

Lợi ngồi xổm nhìn mẹ mình đang lúi cúi bên góc nhà, lén lút cầm lên một miếng vỏ mít, bà thấy thế thì vươn tay tát nhẹ lên mu bàn tay con trai. Thiếu niên cười cười, vẫn trong tư thế ngồi xổm cậu di chuyển ra sau lưng mẹ mình, lúc này cậu mới chống đầu gối nâng thân người lên. Hai tay cậu tì lên vai bà nắn bóp khẽ khàng, đôi mắt Lợi đen lay láy nhìn chằm chằm bàn tay mẹ. Bàn tay ấy có móng bè bè, lởm chởm và dính đầy nhựa rau, làn da nhăn nheo nâu sạm phủ quanh khung xương còm. Bàn tay của người đàn bà mới qua tuổi đầu ba chục mà đã chai sạm vết gió sương, bởi sự khổ cực chiến tranh, bởi sự đói ăn của chiến tranh, bởi chiến tranh đã cướp đi người đỡ đần tay chân cho bà.

Bà lấy chồng năm mười sáu, mười tám đẻ được đứa con trai thì chồng bà quyết chí nhập ngũ, bỏ lại người vợ son rỗi với đứa con thơ dại, mười chín bà góa chồng.

Loạn lạc nhốn nháo đến người sống sờ sờ còn mất hút nhau chẳng tìm được, nữa là giữa trùng trùng bom đạn giày xéo. Hình hài yêu thương của người con, người chồng, người cha, chẳng về được chốn cắt rốn chôn nhau, cũng chẳng về tới vòng tay vợ con. Chỉ có tờ giấy báo tử được đóng sau tấm ảnh thờ, cùng một ba lô cháy xém được chôn sâu xuống đất bạc. Nhưng khắp dải đất này, nơi nào mà chẳng là quê hương tổ quốc, nên bà dặn lòng chồng mình đã được đất nước ôm trọn vào vòng tay, đúng như chí nguyện của ông rồi.

Thế mà cũng đã trải qua mười cái giỗ rồi đấy.

Mỗi ngày giỗ chồng bà sẽ làm một vò nhút mít bày mâm cơm cúng, bởi đó là món ông ấy lúc sinh thời thích ăn, chỉ làm một lần trong năm rồi thôi.

Từ ngày biết nghĩ biết suy, Lợi đã thấy mẹ mình đều đặn làm thế, trí óc non trẻ tuy thắc mắc nhưng trái tim thương yêu bảo rằng chẳng nên hỏi. Bởi ánh mắt người thiếu phụ ấy sâu hơn cả cái giếng khơi đầu làng, ngập đầy chảy tràn dòng buồn khổ thầm lặng, đã quá nhiều lời giải thích không cần cất lời.

Món nhút mít này, nói cho sang miệng thì là đặc sản, chứ bản chất chỉ là món cải thiện bữa ăn hằng ngày, của những nông dân đói khổ chẳng đào đâu ra chút đạm từ thịt cá mà thôi.

Sau khi gọt rửa xong vỏ ngoài, mẹ Lợi sai cậu bưng trái mít trơn láng trắng ngần ấy đặt lên mẹt tre trong sân nhà, cạnh bên gian bếp cho bà. Riêng bà băm sơ qua mớ vỏ mít rồi gom lại vào rổ tre, để trộn cùng rau lợn Lợi vừa băm kia, lát dành nấu cám.

Một cây mít nho nhỏ có thể dưỡng nuôi vun vén được cả một gia đình, lá khô nhóm bếp, gỗ làm đồ dùng, quả thì ăn được từ múi đến xơ và cả hột. Người ấm bụng mà vật cũng no nê. Lợi luôn thấy thương dân quê mình, thương cả đất nước giữa cơn bỉ cực, hẳn ở đâu đó cũng sẽ có những món ăn được xưng gọi đặc sản địa phương nhưng thực chất ấy lại là cách góp nhặt sáng tạo, để đói khổ không bào mòn con người, để tìm hồi thái lai ấm êm ngày sau mà thôi.

Xong xuôi đâu đấy bà mới cúi lom khom dáng người đã lờ mờ có dấu hiệu của một chiếc lưng còng tuổi già, xách theo ghế con rồi vén váy đụp ngồi xuống chỗ mẹt. Bà xéo tay cầm con dao phay, băm nhè nhẹ lên thịt mít non, xong lại nghiêng lưỡi dao bào chỗ vừa băm thành từng sợi nhỏ.

Mớ mít non ấy được nắng thì phơi tới chiều là có thể trộn cùng muối hạt rồi nén vào vò gốm, đổ xâm xấp nước sôi để nguội, nén chặt mặt xuống bằng làn tre cho ngập hết nước, khoảng dăm bảy ngày là chua ngấu ăn được.

Những năm đầu sau năm tư, mâm cúng chồng bà chỉ bày được chén khoai lang luộc và đĩa nhút mít, nhang không có mà nước mắm chấm kèm cũng không. Về sau cuộc sống cũng cải thiện chút ít, Lợi lớn lên biết phụ bà đồng áng thì mâm cơm ăn lẫn cơm cúng đã có cơm trắng độn khoai, rồi dần dần thành cơm trắng kèm rau luộc với chút tép rong cá đồng.

Duy chỉ có mâm cơm cúng chồng là lúc nào cũng ưu tiên có thêm món nhút mít, khi chấm nước mắm ớt, khi xào mỡ heo, khi nấu canh tép đồng, khi lại nhút trộn rau thơm lạc rang.

Nhiều khi Lợi thèm nhút mít, xin mẹ làm cho ăn nhưng bà nhất quyết không làm, chính cậu bảo tự làm bà cũng không cho. Ở cái tuổi lên sáu lên tám, cậu cũng vùng vằng giận dỗi. Nhưng về sau trong những buổi chăn trâu cùng chúng bạn, cậu ngó thấy những gia đình tiễn em cháu, đưa chồng con lên đường nhập ngũ. Có những gia đình ôm nhau cười trong nước mắt đoàn viên dù cơ thể chẳng còn vẹn toàn, cũng có những gia đình khóc gục bên tờ giấy báo tử với đôi dòng chữ ngắn ngủi, thì cậu đã lờ mờ hiểu ra tất thảy mọi sự.

Lợi chẳng còn đòi mẹ làm nhút mít cho ăn ngoài ngày giỗ cha mình nữa.

Cuộc sống tưởng chừng cứ bình yên trôi như thế, tuy khốn khó nhưng rồi sẽ ngày càng tốt lên, mẹ Lợi đã nghĩ thế đấy.

Nhưng cái giống giặc cướp nước nó chẳng buông tha cho đời người phụ nữ tảo tần, nó cướp đi cha anh, giật đi chồng, giờ nó lại sắp giằng đi con khỏi tay bà.

Bà run run cầm tờ giấy báo nhập ngũ hơi nhăn nheo được giấu kĩ trong túi áo làm đồng của Lợi, ngồi bần thần trước hiên cửa chẳng có biểu cảm gì. Nắng vàng hắt từ đỉnh ngọn cau phủ lên mái đầu mới hơn ba nhăm mà đã trắng xám sương gió, ôm lấy thân hình nhỏ nhắn đã gồng gánh nửa đời người.

Giữa trưa Lợi cắp sách bên nách, một tay thì xách theo chùm cá rô xỏ dây lạt, ống quần bên thấp bên cao tươi cười bước vào sân nhà. Vừa hé môi giơ chùm cá lên cất lời “Mệ ơi, bữa ni…” thì khựng lại khi thấy mẹ mình bần thần cầm tờ giấy nhàu nát kia.

Cậu thả chùm cá buông thõng bên hông, bặm môi im lặng giây lát mới từ từ bước về phía mẹ, ngồi xổm rướn người đặt tay ôm trọn lấy tay bà, siết chặt chung với tờ giấy nhập ngũ.

Cha cậu họ Hoàng, người gốc Hà Nội di tản về nông thôn, ngày đẻ cậu ông chẳng kịp đặt cho con trai nổi cái tên mà chỉ bỏ lại câu nói “Thắng lợi anh về với ả.” rồi hấp tấp xách ba lô đi.

Mẹ cậu xưa kia cũng học được đôi ba con chữ Quốc Ngữ từ lớp bình dân học vụ, thế là đặt cho cậu cái tên “Hoàng Thành Thắng Lợi”. Ý của bà là nói trại ý “Hoàn thành - Thắng lợi”, cũng như yêu mến cái gốc gác Hà Nội của chồng đấy thôi. Bà ngóng cho chồng bà được nhờ lời thơm ấy mà về sum vầy cùng con và vợ trong ngày nước nhà đại thắng. Đâu có ai ngờ rằng rồi cái tên đó lại vận vào chính đứa con trai của mình đâu kia chứ.

Chiến dịch Xuân Hè được rốt ráo tiến hành, biết bao thanh thiếu niên hừng hực khí thế quyết vùng lên cho bọn Mỹ biết mặt hào khí dân ta, trong sự rực lửa ấy Lợi cũng tình nguyện làm đơn nhập ngũ, đầu quân cho chiến trường Trị Thiên và phòng thủ Thành cổ Quảng Trị.

“Con đi bảo vệ Tổ quốc, khi mô thắng lợi con về với mệ.”

“Tau sợ mi hứa lèo như thằng cha mi.” Bà cúi đầu lầm bầm.

Lợi siết chặt hơn bàn tay đang nắm, siết tới mức khiến xương cốt bà đau nhói râm ran, siết đến độ tim phổi bà rướm máu, ruột gan bà nóng rát. Bà sợ cho con đi thì mất con như mất chồng, càng sợ giữ lại thì con nó hờn mình, nước nhà trách mình.

“Cò lẹ nào con lại dối mệ.” Lợi thì thào khuyên nhủ.

Bà không trả lời con trai, chỉ cúi đầu nhìn đôi tay chai sạn lấm lem bùn sình của cậu. Lợi là đứa học giỏi y hệt cha mình, nếu tổ quốc yên bình nước nhà ấm êm, cậu hẳn sẽ được thỏa chí cùng con chữ giảng đường.

“Mi đi như rứa, khác mô giết mệ hở mi?”

Lợi biết chứ, biết rằng bà mang nặng chín tháng, rứt ruột đẻ đau, ấp ôm nuôi nấng Lợi, bởi cậu là gia đình duy nhất còn sót lại cùa bà, bà chỉ có một nguyện cầu là gia đình nhỏ ấy sẽ được ấm êm lành lặn. Nhưng đã định sẵn nước mất thì nhà tan, làm sao tránh khỏi giông bão thời đại, lùi về sau co rúm mong cho bão ngớt, chi bằng tiến về trước chủ động ngăn đón cơn giông dữ. Lợi nói thì thầm, như khuyên nhủ, lại như sợ kẻ cắp nó nghe thấy âm thanh của chút hạnh phúc nhỏ nhoi còn sót lại, sẽ nhào vào giật cướp đi mất khỏi tay mẹ của cậu.

“Con nỏ đi, quân nớ chúng cũng nỏ để dân ta yên. Con đi, khi mô con về mệ mần nhút mít cho con ăn, mệ hỉ?”

Thế là Lợi đi, đúng cái tuổi đôi chín tươi đẹp nhất.

Tiếng ve kêu inh tai nhức óc và cái nắng chói chang đỏ lửa đón lấy cậu.

“Bì bõm! Bì bõm! Bì bõm!”

Tiếng nước sông giữa đêm lại chẳng êm đềm như nó vốn dĩ, mặt sông trôi nổi từng mảnh gỗ vụn quần áo, loang loáng một màu nâu đỏ kì dị. Khuất sau mớ cỏ cây bên bờ Thạch Hãn, nơi giao liên với trung tâm thành cổ, từng tốp thanh niên trai tráng dính đầy bùn sình đang áp sát xuống mặt đất, nheo mắt thăm dò, nghiêng tai nghe ngóng đợi động tĩnh lắng xuống.

Từ bờ bên này có thể thấy lờ mờ khung cảnh bờ bên kia khi pháo sáng chói qua bầu trời đêm quánh đặc. Tất cả rặt một cảnh hoang tàn liêu xiêu, cây cỏ cháy rụi, tường đá lởm chởm. Oằn nghiêng trước hỏa lực như mưa rào ngày đêm dội ào ạt. Khom xuống như chiếc lưng còng của những người mẹ hậu phương ngóng trông con nơi tiền phương.

Oằn khom đấy nhưng quyết không đổ sập.

Lợi siết chặt dây balo, thân súng đã bao bọc kĩ càng vắt lên lưng cho khỏi ướt, mũ tai bèo sờn rách ngậm đầy sương đêm và mồ hôi trĩu nặng lụp xụp che khuất tầm nhìn, cậu kéo tụt nó ra sau một chút cho đỡ vướng khiến dây cột siết chặt quanh cổ. Tuy rằng khó chịu nhưng nhắc nhở Lợi rằng vẫn có nhịp đập hơi thở dưới sợi dây ấy, cậu sẽ chiến đấu tới tận làn hơi nhịp tim cuối cùng.

“Đi!”

Một tiếng hô nhỏ của chỉ huy vang lên, từ trung tâm người này huých người kia ra hiệu, thế là một tốp lính mới lại bò trườn về mép sông.

Sự im ắng kì dị bỗng khiến người ta rợn cả gai ốc dọc sống lưng, sự yên ắng trước khi bão tố nổi lên.

Lợi bì bõm lội về phía trước, chẳng dám ngóc quá cao mà chỉ lợi dụng chút bèo trôi lập lờ trên mặt sông làm chỗ trú lấy hơi, rồi lại hụp xuống lội vô định về trước. Từng tốp lính đông đúc nép vào nhau nhưng ai cũng khe khẽ rẽ nước, tới chừng chỉ cách bờ bên kia vài mét nữa thôi, thì sự im lặng đáng sợ kia dồn nén, nổ tung.

Từng đợt pháo bom lóe sáng bầu trời đêm, kéo cái đuôi chói lóa như sao chổi xẹt ngang trời, vút đi, đáp ầm xuống mặt sông phẳng lặng.

Những cơ thể ấm nóng bị nả mạnh, văng lên cao, dạt ra tứ tán xung quanh.

Máu nóng hòa với nước sông lạnh.

Tiếng hét gọi trộn với tiếng bom đạn.

Cả cơ thể Lợi chịu đợt sóng xung kích dạt ra xa chới với, nước sông tràn vào mũi miệng đến ngộp thở.

“Bùm! Bùm! Bùm!”

Cậu vẫy vùng trong vô định, nhưng càng không dám ngóc đầu lên, chỉ cố gắng chúi đầu dò dẫm bơi tới trước. Chợt cổ tay cậu bị nắm lấy, giữa làn nước sông đêm tối nhòe nhoẹt không nhìn rõ ai ai, nhưng cậu vững dạ chắc chắn là đồng đội mình thôi. Thế là Lợi nắm siết cánh tay ấy, kéo về phía mình. Cánh tay bị cậu nắm lấy kia có một cái lỗ sâu hoắm, từng dòng nóng hổi tràn ra liên tục từ đó, cậu hốt hoảng dùng một tay nắm quanh lỗ ngăn máu chảy, một tay còn lại xốc thân người đồng đội nương vào mình.

Cả hai cậu thanh niên dù chẳng biết mình đang dìu đỡ nương tựa vào ai, nhưng vẫn vững tin một điều đấy là đồng đội, cùng nhau bì bõm tiến về bờ bên kia.

Một làn bụi mưa “sao chổi” đỏ loét chói lòa lại xẹt ngang trời đêm Thạch Hãn, xé tan mây mờ, xé tan những đời thanh xuân yêu nước bỏ ngỏ.

“Véo! Véo! Véo!”

Lần này chờ đón Lợi không còn là làn sóng xung kích như giữa sông nữa, mà là một loạt mưa đạn trực diện đáp xuống.

Cậu thanh niên kề bên Lợi bị nện mạnh, văng ra.

Lợi rướn dài thân người cố với theo nắm chặt tay đồng đội, nhưng bất thành.

Lợi hét lên những tiếng gọi giữa sóng nước đẩy xô và bom đạn tuôn rơi.

“Mi ơi! Mi chộ mô!?”

Tiếng hét của cậu vừa dứt thì cánh tay lẫn bờ lưng gầy gò bị trúng một loạt đạn bom, máu tươi ồ ạt nhuộm nâu tấm áo xanh, nhuộm đỏ dòng nước sông vốn đã đen ngòm.

Thái dương cậu giật giật liên hồi vì rát buốt, từng luồng nóng hổi đặc quánh tràn xuống lấp kín tầm nhìn, chốc lát sau bị nước sông dập vào pha loãng ra xung quanh. Tay chân đói ăn lạnh toát không sức quẫy đạp, Lợi cố ngoi lên nhưng vô vọng, khắp mũi miệng tràn đầy nước sông tanh tưởi, cả thân hình cậu kiệt sức chìm dần xuống.

Cơn đau lần này đột ngột và sâu sắc quá, nó không ngấm từ từ như những vết thương cháy nắng rồi ngâm nước mưa trong hào sâu hầm trú, nó không dai dẳng như cơn đói ăn lâu nay, nó cũng không kéo dài như nỗi nhớ thương mẹ hiền nơi quê nhà.

Nó nhanh, mạnh.

Nó khoét, xé.

Nó bóp nghẹt rồi nhấn chìm đến không thể ngoi lên lấy hơi.

Giữa ánh chớp nháy bom đạn ác liệt và loang loáng bọt nước đỏ lòm máu thịt đồng bào, khóe môi cậu thầm lặng kêu lên từng lời nhớ thương không tròn tiếng, dai dẳng, kéo dài.

“Mệ ơi… Mệ ơi… Mệ ơi… Con đau quá! Mệ ơi… Con đau quá, cứu con mệ ơi, cứu con, cứu con… Mệ ơi!”

Phải rồi, có ai khi thực sự đối mặt với cái chết, bằng xương thịt chính mình, lại dám vỗ ngực nói rằng không sợ hãi chút nào đâu. Chỉ là nỗi căm hờn giống giặc tàn ác, tình yêu nước thương nòi, nó khỏa lấp đi cơn đau xác thân. Chỉ là mong mỏi được về lại chái nhà thân yêu, được một lần nữa ấp mình vào trong vòng tay thô ấm, nó ru êm những cơn ác mộng chiến tranh mà thôi. Nhưng đau đớn nó mạnh mẽ quá, ác mộng nó đáng sợ quá, còn người ta thì chỉ là hình hài tóc da máu xương nhỏ nhoi, cũng phải vô thức rên rỉ trong những cơn quằn quại giữa tàn khốc bom đạn.

Nhưng rên lên thì nghĩa là còn sống.

Còn thở.

Còn chiến đấu.

Còn có hi vọng.

Còn ngày tương phùng nhau.

Đêm đó, Thạch Hãn chẳng im ắng một giây phút nào.


“Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ,

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.

Có tuổi hai mươi thành sóng nước,

Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm.”


Bóng nắng nhấp nhô theo từng bước chân chạy của người phụ nữ, bà lao tới chẳng dừng nghỉ giây phút nào, sợ rằng mình đang chiêm bao như bao lần khác suốt hơn năm ròng dài đằng đẵng vừa qua.

Cơ thể nhỏ nhắn khòm khòm lao đi, vươn tay, chụp lấy, ôm chặt.

Cả thân hình cao cao bị ôm kia lảo đảo lùi hai bước về sau, nhưng không ôm lại bà. Bà dụi cả khuôn mặt vào bờ ngực gầy mặc áo lính xanh, vầng trán cấn phải một vật gì hơi cồm cộm, bà tì mạnh xuống tới mức xương sọ nhói đau. Chỗ túi áo nơi ngực trái hơi phồng bà đang tì trán lên ấy, lấp ló một mảnh khăn thêu ố ngập sắc nâu của máu khô và bùn đất, nó nằm ngoan để được ủ ấm, nằm ngoan đợi ngày được gửi về lại quê nhà, để được lần nữa ấp ôm giữa vòng tay tía má yêu thương. 

Bà cứ dụi mãi thế mà chẳng thấy được đáp lại, chợt bà ngẩng đầu lên nhìn, khuôn mặt gần kề ấy đúng là con trai bà kia rồi. Nhưng từ thái dương tới mang tai trải dài một vết sẹo vằn vện như giun bò, hãy còn phập phồng đỏ hồng sắc da non. Bờ vai lớn nhưng hai đầu lại khấp khểnh, một bên trống vắng chỉ phất phơ tay áo dài cột túm lại, còn một bên thì đang nẹp bó cột hờ bằng sợi dây treo trên cổ. Đó là lý do Lợi chẳng thể ôm lại mẹ mình.

Đôi môi nhăn nheo khô nứt của bà run run, bà vuốt ve từ thái dương dọc xuống hai vai Lợi bằng những cử động giật cục.

Lợi hơi cười hiền, mủi lòng thì thầm.

“Mệ mần nhút mít con ăn, mệ hấy!”

Bà ôm chầm lấy con trai, nước mắt kìm nén chẳng rơi một lần nào từ sau ngày nhận giấy báo tử của chồng, nay chảy tràn ồ ạt.

Nhưng chẳng phải khóc vì khổ đau như lần đó, mà khóc vì hạnh phúc sum vầy.

Hết.

_

Dự thi: Cuộc thi viết truyện ngắn 2025 – Truyện Nhà Ong x Mật Văn.

Tác phẩm: Mệ Ơi, Phần Con Bát Nhút Mít, Hấy!

Tác giả: Đạm Yên Sơ Vũ.

Bảng C: Hạnh Phúc.

_

*Chú thích:

Câu chuyện và nhân vật hư cấu, chỉ dựa trên bối cảnh chiến trường Trị Thiên 1972 và Thành cổ Quảng Trị. Nếu vô tình trùng lặp với bất kì nhân vật có thật nào, không phải tác giả cố ý.

Chiến trường Trị Thiên (Quảng Trị - Thừa Thiên Huế) là chiến trường chủ lực nằm trong Chiến dịch Xuân Hè 1972 (30/03/1972 - 31/01/1973) của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhằm tấn công chiến lược toàn miền Nam. 

Đến tháng 05/1972 Quân giải phóng chính thức chiếm toàn bộ Quảng Trị từ địch.

Giữa tháng 06/1972, địch phản công hòng tái chiếm Quảng Trị.

Trận chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị của quân và dân Việt Nam diễn ra trong 81 ngày đêm (28/06/1972 đến 16/09/1972), là cuộc chiến đấu ác liệt của ta chống lại âm mưu tái chiếm Quảng Trị của địch.

Nhân vật người Nghệ An, nên các từ ngữ được sử dụng là phương ngữ Nghệ An.

  • Nhút mít: Dưa chua làm từ mít non hoặc xơ mít chín, đặc sản Nghệ An.

  • Mệ: Mẹ.

  • Hấy: Nhé.

  • Trốc: Đầu.

  • Cấy chi: Cái gì.

  • Ải ải: Không ăn thua.

  • Nhác hơn tru: Lười hơn trâu.

  • Rầy: Chửi mắng.

  • Chộ răng nói rứa: Thấy sao nói vậy.

  • Khi mô: Khi nào.

  • Cò lẹ: Có lẽ.

Bài thơ “Lời gọi bên sông” (Đò xuôi Thạch Hãn) của nhà thơ, cựu binh Lê Bá Dương.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout